ASEAN nên ứng phó ra sao với thương chiến Mỹ - Trung 2.0?

ASEAN nên giảm thiểu tác động từ thương chiến Mỹ - Trung bằng cách thành lập các “đặc khu kinh tế”, phát triển doanh nghiệp địa phương, và ưu tiên các nguồn lực của khu vực.

Trương Tuấn Kiệt 24/02/2025
Image
ASEAN giữa thương chiến Mỹ - Trung 2.0 - (C): Young Initiative on Foreign Affairs and International Relations

Căng thẳng Mỹ - Trung nhanh chóng nóng lên khi Tổng thống Donald Trump bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai tại Nhà Trắng. Ngày 1/2, vị tổng thống thứ 47 của Mỹ đã ban hành sắc lệnh áp mức thuế 10% đối với toàn bộ hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc, thấp hơn mức 60% mà ông từng cam kết khi tranh cử. Để đáp trả, Bắc Kinh đánh thuế 10 - 15% đối với khí tự nhiên hóa lỏng (LNG), than, dầu thô và thiết bị nông nghiệp từ Mỹ. Màn đáp trả này là tương đối “nhẹ tay” và khó gây ra tác động lớn, bởi mức thuế này ảnh hưởng chưa tới 10% tổng nhập khẩu từ Mỹ vào Trung Quốc. 

Tuy vậy, những động thái “ăn miếng trả miếng” nêu trên cho thấy thương chiến Mỹ - Trung sẽ không dừng lại, mà thậm chí sẽ căng thẳng hơn với nhiều biến động bất ngờ.

Trước thực trạng này, Đông Nam Á - một khu vực phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu, đặc biệt là các mặt hàng trung gian và thành phẩm cho cả Mỹ và Trung Quốc – đối mặt với những rủi ro kinh tế. Tuy nhiên, thương chiến cũng mở ra cơ hội để các quốc gia tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng linh hoạt và bền vững hơn nhằm ứng phó kịp thời với các biến động kinh tế. 

Vậy các quốc gia ASEAN sẽ có những lựa chọn nào?

Cân bằng Mỹ - Trung 

Trước tiên, bàn về Trung Quốc, mối quan hệ giữa siêu cường này với các quốc gia Đông Nam Á ngày càng gắn kết. Một minh chứng cho nhận định này là số lượng các cuộc gặp dày đặc giữa quan chức cấp cao các nước ASEAN và Trung Quốc trong suốt năm 2024. 

Cụ thể, những nhà lãnh đạo khu vực đã sang thăm Trung Quốc gồm Bộ trưởng Quốc phòng Indonesia (khi đó mới thắng cử Tổng thống) Prabowo Subianto, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Bùi Thanh Sơn, Bộ trưởng Ngoại giao Lào Saleumxay Kommasith, Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Vương Đình Huệ, Tổng thống Indonesia Joko Widodo, và Ngoại trưởng Malaysia Mohamad Hasan (tháng 4); Bộ trưởng Ngoại giao Campuchia Chenda Sophea và Bộ trưởng thứ hai Bộ Ngoại giao Brunei II Dato' Erywan Pehin Yusof (tháng 5); Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính (tháng 6); Ngoại trưởng Thái Lan Maris Sangiampongsa (tháng 7); Chủ tịch nước Việt Nam Tô Lâm (tháng 8); Ngoại trưởng Singapore Vivian Balakrishnan, và Quốc vương Malaysia - Ibrahim ibni Iskandar (tháng 9); Thủ tướng Malaysia Anwar Ibrahim, Tổng thống mới nhậm chức Prabowo, và Thống tướng Myanmar Min Aung Hlaing (tháng 11).  

Ở chiều ngược lại, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã đến thăm Thái Lan (tháng 1); Indonesia, Campuchia (tháng 4); Lào (tháng 7); Myanmar (tháng 8). Ngoài ra, Thủ tướng Lý Cường đã đến Lào vào tháng 10 để tham dự Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS).

Các cuộc gặp dày đặc cho thấy sự tương tác đều đặn giữa lãnh đạo Trung Quốc và ASEAN. Trong đó, tháng 4 ghi nhận số lượng cuộc gặp lớn nhất, với tổng cộng tám cuộc tiếp xúc từ cả hai phía. Điều này phản ánh rằng Trung Quốc đang rất quan tâm đến ASEAN, và ngược lại.

Bên cạnh các tương tác ngoại giao dày đặc, hợp tác kinh tế Trung Quốc - ASEAN cũng đạt được các kết quả đáng chú ý. Trong 10 tháng đầu năm 2024,  kim ngạch thương mại của Trung Quốc với các nước ASEAN tăng 8,8% lên mức 790 tỷ USD. Để dễ so sánh, trong cùng thời gian này, kim ngạch thương mại của Trung Quốc với Liên minh châu Âu (EU) tăng 1,2% lên mức 645 tỷ USD; Mỹ tăng 4,4% lên mức 558 tỷ USD; Hàn Quốc tăng 6,7% lên mức 265 tỷ USD. Không khó để nhận thấy rằng thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN có mức tăng trưởng lớn nhất, và số lượng cũng là cao nhất. 

Kể từ năm 2020, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Trung Quốc vào Đông Nam Á cũng tăng mạnh, chủ yếu do động lực tìm kiếm thị trường lớn hơn với chi phí thấp hơn, nhằm ứng phó với thương chiến diễn ra với Mỹ. Giá trị trung bình hàng năm của FDI từ Trung Quốc vào ASEAN trong giai đoạn 2021 - 2023 là 16,2 tỷ USD, cao hơn nhiều so với con số 6,3 tỷ USD của một thập kỷ trước đó. Trong bảy tháng đầu năm 2024, FDI của Bắc Kinh đến Đông Nam Á tiếp tục tăng trưởng thêm 15,3% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt mức 12,96 tỷ USD. 

Tuy nhiên, những thống kê choáng ngợp đó là chưa đủ để các nước Đông Nam Á nên ngả về Trung Quốc trong cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung. Một vấn đề cần lưu ý là khi các công ty Trung Quốc đi đầu tư mở nhà máy, họ không chỉ nhập khẩu hầu hết các linh kiện từ quê nhà, mà còn thường xuyên đưa cả nhân công sang. Điều này có thể khiến các ngành công nghiệp phụ trợ ở quốc gia tiếp nhận đầu tư khó có dư địa phát triển (do Trung Quốc ít hoặc không có nhu cầu mua), và người lao động bản địa gặp khó trong việc tìm kiếm công việc, chưa kể dễ bị phân biệt đối xử với lực lượng lao động của quốc gia tỷ dân. Cùng với đó, nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng mạnh mẽ trong nhiều thập niên qua một phần là nhờ chính sách thúc ép các công ty nước ngoài chuyển giao công nghệ cho các đối tác trong nước. Vì thế, các nước ASEAN không dễ để yêu cầu Bắc Kinh đồng ý chuyển giao công nghệ trong quá trình đầu tư.

Cùng với đó, trong những năm qua, khi quan hệ thương mại giữa Trung Quốc với Mỹ trở nên khó khăn hơn, làn sóng hàng hóa giá rẻ từ Trung Quốc đã tràn vào Đông Nam Á, đe dọa năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp địa phương. Trên thực tế, nhiều quốc gia trong khu vực đã có những hành động cụ thể để chống lại các tác động tiêu cực từ những sản phẩm nhập khẩu từ Bắc Kinh. Tháng 6/2024, Indonesia công bố kế hoạch áp thuế lên tới 200% đối với một số sản phẩm do Trung Quốc sản xuất nhằm bảo vệ ngành sản xuất trong nước trước các hành vi bán phá giá từ cường quốc này. Từ sự khởi đầu của Indonesia, Việt Nam đã tiếp bước vào cuối tháng 7 bằng việc mở cuộc điều tra bán phá giá đối với một số sản phẩm thép cán nóng (HRC) có xuất xứ từ Trung Quốc. Sau đó, vào tháng 8, Bộ Thương mại Malaysia cho biết cơ quan này sẽ trình Quốc hội vào năm 2025 để xem xét Luật Chống bán phá giá (Dumping Laws) để bảo vệ các ngành công nghiệp nước này chống lại số lượng lớn hàng hóa nhập khẩu giá rẻ từ các nước, bao gồm cả Trung Quốc. Cùng thời gian này, Thái Lan đã mở cuộc điều tra chống bán phá giá đối với nhôm ép đùn từ Trung Quốc sau khi các nhà sản xuất trong nước phàn nàn về thiệt hại từ hàng nhập khẩu. 

Quan trọng hơn, rất khó để các nước ASEAN cùng nghiêng về Trung Quốc, bởi các thành viên có quan điểm khác biệt về cường quốc láng giềng. Campuchia và Lào có xu hướng coi Bắc Kinh là một phần không thể thiếu trong tương lai kinh tế của họ, với nhiều dự án hạ tầng nổi bật được triển khai trong thời gian qua như cảng tự trị Sihanoukville, đặc khu kinh tế Sihanoukville, đường cao tốc Phnom Penh - Sihanoukville, kênh đào Funan Techo, tuyến đường sắt tốc độ cao Trung Quốc - Lào (nối thành phố Côn Minh với thủ đô Vientiane). Ở chiều ngược lại, Philippines dưới thời Tổng thống Ferdinand Marcos Jr. lại không có mối quan hệ tốt với Trung Quốc, và hai nước đã chứng kiến hàng loạt vụ va chạm ở Biển Đông trong thời gian qua. Trong khi đó, Indonesia, Malaysia và Việt Nam nỗ lực duy trì cách tiếp cận cân bằng: vừa hợp tác nhưng cũng vừa dè chừng Trung Quốc (chủ yếu do vấn đề chủ quyền). 

Dù ASEAN không nên nghiêng về Trung Quốc thì các thành viên của tổ chức cũng khó “cậy nhờ” Mỹ, đặc biệt là trong nhiệm kỳ của Tổng thống Donald Trump. Ngay sau khi nhậm chức, ông Trump liên tiếp đưa ra các tuyên bố về chính sách đối ngoại đối với nhiều khu vực, như Trung Đông, Tây Bán cầu, nhưng chưa đề cập đến Đông Nam Á. Nếu đánh giá lại những gì đã diễn ra trong nhiệm kỳ đầu tiên (2017 - 2021), điều này không có gì bất ngờ. Người đứng đầu Nhà Trắng khá thờ ơ với các Hội nghị Cấp cao của ASEAN và chỉ tham dự một lần duy nhất vào năm 2017. Ông Trump khi đó cũng không bổ nhiệm Đại sứ Mỹ tại ASEANSingapore

Đáng chú ý hơn, trong nhiệm kỳ đầu, ông Trump đã rút Mỹ khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), làm suy yếu vai trò của Mỹ trong việc định hình các quy tắc thương mại ở Đông Nam Á. Đồng thời, sự “rút lui” này tạo cơ hội cho Trung Quốc gia tăng vai trò kinh tế với các nước ASEAN thông qua đại sáng kiến là Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP). Tình cảnh tương tự có lẽ cũng sắp xảy ra với sáng kiến Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương vì Sự Phồn thịnh (IPEF) do cựu Tổng thống Joe Biden đưa ra, đặc biệt là khi ông Trump gọi cơ chế này là “TPP thứ hai” (TPP two). Mặc dù tác động của việc xóa bỏ IPEF sẽ khó lớn bằng sự kiện Mỹ rút khỏi TPP vào năm 2017 (TPP là một hiệp định thương mại tự do, trong khi IPEF thì không như vậy), nhưng nó cũng sẽ làm suy yếu cam kết của Washington trong việc duy trì sự can dự kinh tế của mình ở Đông Nam Á. 

Tuy nhiên, các nước ASEAN không nên vì thế mà lạnh nhạt trong hợp tác kinh tế với Mỹ. Vẫn có những cơ hội mà các quốc gia có thể tận dụng từ Washington. Chẳng hạn, theo một khảo sát của Phòng Thương mại Mỹ tại Trung Quốc (American Chamber of Commerce in China) hồi tháng 1, có đến 30% các công ty Mỹ (một số lượng kỷ lục) đang cân nhắc hoặc đang trong quá trình chuyển hoạt động sản xuất ra khỏi quốc gia tỷ dân. Trong đó, có đến 38% số công ty được hỏi coi các quốc gia đang phát triển ở châu Á, như Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Indonesia, là những điểm đến ưa thích để di dời nhà máy. 

Ngoài ra, hồi tháng 10/2024, tập đoàn Trump Organization đã đạt thỏa thuận với Tổng công ty Phát triển Đô thị Kinh Bắc để đầu tư tổ hợp khách sạn, sân golf, khu dân cư ở Hưng Yên với quy mô vốn vào khoảng 1,5 tỷ USD. Ngoại trừ Việt Nam, doanh nghiệp này chưa công khai mối quan tâm đầu tư vào các quốc gia khác ở Đông Nam Á, nhưng bước khởi đầu trên có thể tạo đà cho sự mở rộng tiềm năng trong tương lai.    

Việc hợp tác với cả Trung Quốc và Mỹ đều có cả thuận lợi và khó khăn. Nói cách khác, khó có thể kỳ vọng một kết quả “lưỡng toàn kỳ mỹ” trong hợp tác giữa ASEAN với hai siêu cường.

Do đó, thay vì chọn phe, các nước ASEAN nên tận dụng những mặt thuận lợi và hạn chế các mặt khó khăn trong quan hệ với Mỹ và Trung Quốc. ASEAN cũng cần đảm bảo sự cân bằng trong các tương tác với cả hai siêu cường và không để bị phụ thuộc vào bất kỳ bên nào nhằm tránh tạo cớ để bên còn lại gây sức ép về kinh tế (chẳng hạn như áp thuế hay đưa ra nhiều tiêu chuẩn khắt khe về sản phẩm nhập khẩu). 

Thúc đẩy tương tác nội khối 

Trong khi cố gắng cân bằng Mỹ - Trung, các nước Đông Nam Á cũng cần tích cực thúc đẩy hội nhập kinh tế nội khối. Lý do là vì việc này có thể giúp ASEAN giảm sự phụ thuộc vào bên ngoài, từ đó có lập trường chủ động hơn đối với nhiều vấn đề khu vực, như sự cạnh tranh ảnh hưởng giữa các cường quốc, hay sự lệ thuộc vào FDI và thương mại với Trung Quốc.

Một giải pháp có thể được cân nhắc là ASEAN thiết lập các “đặc khu kinh tế” với ưu đãi thuế đặc biệt hoặc miễn thuế cho những doanh nghiệp ở Đông Nam Á. Cách làm này có thể giúp thúc đẩy tự do hóa thương mại trong khu vực (thương mại nội khối ASEAN trong năm 2022 chỉ chiếm 22% tổng thương mại khu vực), đồng thời tạo ra nhiều cơ hội việc làm hơn cho người dân địa phương. Tuy nhiên, để giải pháp đạt hiệu quả cao nhất, các nước Đông Nam Á có chung tầm nhìn cần thiết kế các chương trình hợp tác kỹ lưỡng, đảm bảo rằng các chính sách không “thiên vị” - mang lại lợi ích quá nhiều cho một (hay một nhóm) quốc gia, trong khi gây bất lợi cho các quốc gia còn lại. Suy cho cùng, sự mất cân bằng về thương mại chính là gốc rễ của thương chiến Mỹ - Trung. Năm 2017 (năm đầu tiên ông Trump nắm quyền tổng thống trong nhiệm kỳ một), Bắc Kinh đạt thặng dư thương mại với Washington ở mức kỷ lục là 275,8 tỷ USD, trở thành một trong những lý do chính khiến Trump quyết định khởi động chiến tranh thương mại một năm sau đó. Đông Nam Á không nên đi trên vết xe đổ đó.   

Muốn phát triển các đặc khu một cách hiệu quả, việc nâng cao năng lực của các doanh nghiệp trong khu vực là yêu cầu tất yếu. Chính phủ các nước có thể đưa ra các ưu đãi về thuế, trợ cấp và các hỗ trợ kinh tế khác để thu hút và giữ chân các doanh nghiệp sản xuất trong nước, đặc biệt là những đơn vị có quy mô vừa và nhỏ. Những khoản tiền đó có thể giúp họ mở rộng hoạt động sản xuất, hiện đại hóa dây chuyền, và nâng cao năng suất. Đồng thời, các chính phủ cũng cần xây dựng những chương trình giáo dục đại học/dạy nghề phù hợp để đào tạo và bồi dưỡng lực lượng lao động lành nghề mà doanh nghiệp địa phương cần.  

Quan trọng hơn hết, các nước ASEAN giờ đây cần đoàn kết với nhau để điều chỉnh chuỗi cung ứng sao cho có thể tối đa hóa việc sử dụng các nguồn lực của khu vực. Cách tiếp cận này là cần thiết để giảm rủi ro từ việc thương chiến Mỹ - Trung leo thang sẽ gây thêm áp lực lên chuỗi cung ứng toàn cầu. Biện pháp cụ thể là các nước ASEAN nên xúc tiến đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại song phương hoặc đa phương để giảm thiểu hơn nữa rào cản thuế quan cũng như đơn giản hóa các thủ tục xuất nhập khẩu.     

Tuy nhiên, để các giải pháp trên thành công thì các nước ASEAN cần có sự quyết tâm đủ lớn. Bởi lẽ, các sáng kiến có thể tốn nhiều nguồn lực và thời gian để hiện thực hóa. Bên cạnh đó, chưa chắc quốc gia Đông Nam Á nào cũng muốn thúc đẩy hợp tác nội khối, có thể do không có đủ động lực để làm như vậy, hoặc chịu sức ép từ cường quốc bên ngoài (Lào và Campuchia đang ngày càng gắn bó với Trung Quốc, nhất là về thương mại và đầu tư). Vì thế, việc thúc đẩy tương tác nội khối không nhất thiết phải bao trùm trong phạm vi toàn bộ 10 quốc gia ASEAN. Thay vào đó, các nỗ lực có thể được triển khai theo từng cụm nhỏ với các nhóm tiểu đa phương (minilateral groupings) để “làm mẫu” và tạo động lực cho các nỗ lực cụ thể với kỳ vọng đạt được những bước tiến lớn hơn. 

Tóm lại, bất kỳ lựa chọn nào trong bối cảnh thương chiến Mỹ - Trung 2.0 đều có thuận lợi và rủi ro. Không có lựa chọn tốt nhất, chỉ có những lựa chọn phù hợp nhất! Một giải pháp ứng phó cần thiết là tối đa hóa lợi ích kinh tế mà Trung Quốc và Mỹ có thể mang lại cho Đông Nam Á trong khi giảm thiểu rủi ro bằng cách cố gắng không lệ thuộc vào bất kỳ bên nào. Và nỗ lực cụ thể nhất mà ASEAN có thể bắt đầu là thúc đẩy thương mại nội khối để tăng cường năng lực tự chủ và sức chống chịu trước các thách thức liên quan đến chuỗi cung ứng toàn cầu. 

Bài viết này thuộc ấn bản đặc biệt với chủ đề “Cạnh tranh Mỹ - Trung dưới thời Trump 2.0”.

Căng thẳng Mỹ - Trung nhanh chóng nóng lên khi Tổng thống Donald Trump bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai tại Nhà Trắng. Ngày 1/2, vị tổng thống thứ 47 của Mỹ đã ban hành sắc lệnh áp mức thuế 10% đối với toàn bộ hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc, thấp hơn mức 60% mà ông từng cam kết khi tranh cử. Để đáp trả, Bắc Kinh đánh thuế 10 - 15% đối với khí tự nhiên hóa lỏng (LNG), than, dầu thô và thiết bị nông nghiệp từ Mỹ. Màn đáp trả này là tương đối “nhẹ tay” và khó gây ra tác động lớn, bởi mức thuế này ảnh hưởng chưa tới 10% tổng nhập khẩu từ Mỹ vào Trung Quốc. 

Tuy vậy, những động thái “ăn miếng trả miếng” nêu trên cho thấy thương chiến Mỹ - Trung sẽ không dừng lại, mà thậm chí sẽ căng thẳng hơn với nhiều biến động bất ngờ.

Trước thực trạng này, Đông Nam Á - một khu vực phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu, đặc biệt là các mặt hàng trung gian và thành phẩm cho cả Mỹ và Trung Quốc – đối mặt với những rủi ro kinh tế. Tuy nhiên, thương chiến cũng mở ra cơ hội để các quốc gia tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng linh hoạt và bền vững hơn nhằm ứng phó kịp thời với các biến động kinh tế. 

Vậy các quốc gia ASEAN sẽ có những lựa chọn nào?

Cân bằng Mỹ - Trung 

Trước tiên, bàn về Trung Quốc, mối quan hệ giữa siêu cường này với các quốc gia Đông Nam Á ngày càng gắn kết. Một minh chứng cho nhận định này là số lượng các cuộc gặp dày đặc giữa quan chức cấp cao các nước ASEAN và Trung Quốc trong suốt năm 2024. 

Cụ thể, những nhà lãnh đạo khu vực đã sang thăm Trung Quốc gồm Bộ trưởng Quốc phòng Indonesia (khi đó mới thắng cử Tổng thống) Prabowo Subianto, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Bùi Thanh Sơn, Bộ trưởng Ngoại giao Lào Saleumxay Kommasith, Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Vương Đình Huệ, Tổng thống Indonesia Joko Widodo, và Ngoại trưởng Malaysia Mohamad Hasan (tháng 4); Bộ trưởng Ngoại giao Campuchia Chenda Sophea và Bộ trưởng thứ hai Bộ Ngoại giao Brunei II Dato' Erywan Pehin Yusof (tháng 5); Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính (tháng 6); Ngoại trưởng Thái Lan Maris Sangiampongsa (tháng 7); Chủ tịch nước Việt Nam Tô Lâm (tháng 8); Ngoại trưởng Singapore Vivian Balakrishnan, và Quốc vương Malaysia - Ibrahim ibni Iskandar (tháng 9); Thủ tướng Malaysia Anwar Ibrahim, Tổng thống mới nhậm chức Prabowo, và Thống tướng Myanmar Min Aung Hlaing (tháng 11).  

Ở chiều ngược lại, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã đến thăm Thái Lan (tháng 1); Indonesia, Campuchia (tháng 4); Lào (tháng 7); Myanmar (tháng 8). Ngoài ra, Thủ tướng Lý Cường đã đến Lào vào tháng 10 để tham dự Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS).

Các cuộc gặp dày đặc cho thấy sự tương tác đều đặn giữa lãnh đạo Trung Quốc và ASEAN. Trong đó, tháng 4 ghi nhận số lượng cuộc gặp lớn nhất, với tổng cộng tám cuộc tiếp xúc từ cả hai phía. Điều này phản ánh rằng Trung Quốc đang rất quan tâm đến ASEAN, và ngược lại.

Bên cạnh các tương tác ngoại giao dày đặc, hợp tác kinh tế Trung Quốc - ASEAN cũng đạt được các kết quả đáng chú ý. Trong 10 tháng đầu năm 2024,  kim ngạch thương mại của Trung Quốc với các nước ASEAN tăng 8,8% lên mức 790 tỷ USD. Để dễ so sánh, trong cùng thời gian này, kim ngạch thương mại của Trung Quốc với Liên minh châu Âu (EU) tăng 1,2% lên mức 645 tỷ USD; Mỹ tăng 4,4% lên mức 558 tỷ USD; Hàn Quốc tăng 6,7% lên mức 265 tỷ USD. Không khó để nhận thấy rằng thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN có mức tăng trưởng lớn nhất, và số lượng cũng là cao nhất. 

Kể từ năm 2020, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Trung Quốc vào Đông Nam Á cũng tăng mạnh, chủ yếu do động lực tìm kiếm thị trường lớn hơn với chi phí thấp hơn, nhằm ứng phó với thương chiến diễn ra với Mỹ. Giá trị trung bình hàng năm của FDI từ Trung Quốc vào ASEAN trong giai đoạn 2021 - 2023 là 16,2 tỷ USD, cao hơn nhiều so với con số 6,3 tỷ USD của một thập kỷ trước đó. Trong bảy tháng đầu năm 2024, FDI của Bắc Kinh đến Đông Nam Á tiếp tục tăng trưởng thêm 15,3% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt mức 12,96 tỷ USD. 

Tuy nhiên, những thống kê choáng ngợp đó là chưa đủ để các nước Đông Nam Á nên ngả về Trung Quốc trong cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung. Một vấn đề cần lưu ý là khi các công ty Trung Quốc đi đầu tư mở nhà máy, họ không chỉ nhập khẩu hầu hết các linh kiện từ quê nhà, mà còn thường xuyên đưa cả nhân công sang. Điều này có thể khiến các ngành công nghiệp phụ trợ ở quốc gia tiếp nhận đầu tư khó có dư địa phát triển (do Trung Quốc ít hoặc không có nhu cầu mua), và người lao động bản địa gặp khó trong việc tìm kiếm công việc, chưa kể dễ bị phân biệt đối xử với lực lượng lao động của quốc gia tỷ dân. Cùng với đó, nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng mạnh mẽ trong nhiều thập niên qua một phần là nhờ chính sách thúc ép các công ty nước ngoài chuyển giao công nghệ cho các đối tác trong nước. Vì thế, các nước ASEAN không dễ để yêu cầu Bắc Kinh đồng ý chuyển giao công nghệ trong quá trình đầu tư.

Cùng với đó, trong những năm qua, khi quan hệ thương mại giữa Trung Quốc với Mỹ trở nên khó khăn hơn, làn sóng hàng hóa giá rẻ từ Trung Quốc đã tràn vào Đông Nam Á, đe dọa năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp địa phương. Trên thực tế, nhiều quốc gia trong khu vực đã có những hành động cụ thể để chống lại các tác động tiêu cực từ những sản phẩm nhập khẩu từ Bắc Kinh. Tháng 6/2024, Indonesia công bố kế hoạch áp thuế lên tới 200% đối với một số sản phẩm do Trung Quốc sản xuất nhằm bảo vệ ngành sản xuất trong nước trước các hành vi bán phá giá từ cường quốc này. Từ sự khởi đầu của Indonesia, Việt Nam đã tiếp bước vào cuối tháng 7 bằng việc mở cuộc điều tra bán phá giá đối với một số sản phẩm thép cán nóng (HRC) có xuất xứ từ Trung Quốc. Sau đó, vào tháng 8, Bộ Thương mại Malaysia cho biết cơ quan này sẽ trình Quốc hội vào năm 2025 để xem xét Luật Chống bán phá giá (Dumping Laws) để bảo vệ các ngành công nghiệp nước này chống lại số lượng lớn hàng hóa nhập khẩu giá rẻ từ các nước, bao gồm cả Trung Quốc. Cùng thời gian này, Thái Lan đã mở cuộc điều tra chống bán phá giá đối với nhôm ép đùn từ Trung Quốc sau khi các nhà sản xuất trong nước phàn nàn về thiệt hại từ hàng nhập khẩu. 

Quan trọng hơn, rất khó để các nước ASEAN cùng nghiêng về Trung Quốc, bởi các thành viên có quan điểm khác biệt về cường quốc láng giềng. Campuchia và Lào có xu hướng coi Bắc Kinh là một phần không thể thiếu trong tương lai kinh tế của họ, với nhiều dự án hạ tầng nổi bật được triển khai trong thời gian qua như cảng tự trị Sihanoukville, đặc khu kinh tế Sihanoukville, đường cao tốc Phnom Penh - Sihanoukville, kênh đào Funan Techo, tuyến đường sắt tốc độ cao Trung Quốc - Lào (nối thành phố Côn Minh với thủ đô Vientiane). Ở chiều ngược lại, Philippines dưới thời Tổng thống Ferdinand Marcos Jr. lại không có mối quan hệ tốt với Trung Quốc, và hai nước đã chứng kiến hàng loạt vụ va chạm ở Biển Đông trong thời gian qua. Trong khi đó, Indonesia, Malaysia và Việt Nam nỗ lực duy trì cách tiếp cận cân bằng: vừa hợp tác nhưng cũng vừa dè chừng Trung Quốc (chủ yếu do vấn đề chủ quyền). 

Dù ASEAN không nên nghiêng về Trung Quốc thì các thành viên của tổ chức cũng khó “cậy nhờ” Mỹ, đặc biệt là trong nhiệm kỳ của Tổng thống Donald Trump. Ngay sau khi nhậm chức, ông Trump liên tiếp đưa ra các tuyên bố về chính sách đối ngoại đối với nhiều khu vực, như Trung Đông, Tây Bán cầu, nhưng chưa đề cập đến Đông Nam Á. Nếu đánh giá lại những gì đã diễn ra trong nhiệm kỳ đầu tiên (2017 - 2021), điều này không có gì bất ngờ. Người đứng đầu Nhà Trắng khá thờ ơ với các Hội nghị Cấp cao của ASEAN và chỉ tham dự một lần duy nhất vào năm 2017. Ông Trump khi đó cũng không bổ nhiệm Đại sứ Mỹ tại ASEANSingapore

Đáng chú ý hơn, trong nhiệm kỳ đầu, ông Trump đã rút Mỹ khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), làm suy yếu vai trò của Mỹ trong việc định hình các quy tắc thương mại ở Đông Nam Á. Đồng thời, sự “rút lui” này tạo cơ hội cho Trung Quốc gia tăng vai trò kinh tế với các nước ASEAN thông qua đại sáng kiến là Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP). Tình cảnh tương tự có lẽ cũng sắp xảy ra với sáng kiến Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương vì Sự Phồn thịnh (IPEF) do cựu Tổng thống Joe Biden đưa ra, đặc biệt là khi ông Trump gọi cơ chế này là “TPP thứ hai” (TPP two). Mặc dù tác động của việc xóa bỏ IPEF sẽ khó lớn bằng sự kiện Mỹ rút khỏi TPP vào năm 2017 (TPP là một hiệp định thương mại tự do, trong khi IPEF thì không như vậy), nhưng nó cũng sẽ làm suy yếu cam kết của Washington trong việc duy trì sự can dự kinh tế của mình ở Đông Nam Á. 

Tuy nhiên, các nước ASEAN không nên vì thế mà lạnh nhạt trong hợp tác kinh tế với Mỹ. Vẫn có những cơ hội mà các quốc gia có thể tận dụng từ Washington. Chẳng hạn, theo một khảo sát của Phòng Thương mại Mỹ tại Trung Quốc (American Chamber of Commerce in China) hồi tháng 1, có đến 30% các công ty Mỹ (một số lượng kỷ lục) đang cân nhắc hoặc đang trong quá trình chuyển hoạt động sản xuất ra khỏi quốc gia tỷ dân. Trong đó, có đến 38% số công ty được hỏi coi các quốc gia đang phát triển ở châu Á, như Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Indonesia, là những điểm đến ưa thích để di dời nhà máy. 

Ngoài ra, hồi tháng 10/2024, tập đoàn Trump Organization đã đạt thỏa thuận với Tổng công ty Phát triển Đô thị Kinh Bắc để đầu tư tổ hợp khách sạn, sân golf, khu dân cư ở Hưng Yên với quy mô vốn vào khoảng 1,5 tỷ USD. Ngoại trừ Việt Nam, doanh nghiệp này chưa công khai mối quan tâm đầu tư vào các quốc gia khác ở Đông Nam Á, nhưng bước khởi đầu trên có thể tạo đà cho sự mở rộng tiềm năng trong tương lai.    

Việc hợp tác với cả Trung Quốc và Mỹ đều có cả thuận lợi và khó khăn. Nói cách khác, khó có thể kỳ vọng một kết quả “lưỡng toàn kỳ mỹ” trong hợp tác giữa ASEAN với hai siêu cường.

Do đó, thay vì chọn phe, các nước ASEAN nên tận dụng những mặt thuận lợi và hạn chế các mặt khó khăn trong quan hệ với Mỹ và Trung Quốc. ASEAN cũng cần đảm bảo sự cân bằng trong các tương tác với cả hai siêu cường và không để bị phụ thuộc vào bất kỳ bên nào nhằm tránh tạo cớ để bên còn lại gây sức ép về kinh tế (chẳng hạn như áp thuế hay đưa ra nhiều tiêu chuẩn khắt khe về sản phẩm nhập khẩu). 

Thúc đẩy tương tác nội khối 

Trong khi cố gắng cân bằng Mỹ - Trung, các nước Đông Nam Á cũng cần tích cực thúc đẩy hội nhập kinh tế nội khối. Lý do là vì việc này có thể giúp ASEAN giảm sự phụ thuộc vào bên ngoài, từ đó có lập trường chủ động hơn đối với nhiều vấn đề khu vực, như sự cạnh tranh ảnh hưởng giữa các cường quốc, hay sự lệ thuộc vào FDI và thương mại với Trung Quốc.

Một giải pháp có thể được cân nhắc là ASEAN thiết lập các “đặc khu kinh tế” với ưu đãi thuế đặc biệt hoặc miễn thuế cho những doanh nghiệp ở Đông Nam Á. Cách làm này có thể giúp thúc đẩy tự do hóa thương mại trong khu vực (thương mại nội khối ASEAN trong năm 2022 chỉ chiếm 22% tổng thương mại khu vực), đồng thời tạo ra nhiều cơ hội việc làm hơn cho người dân địa phương. Tuy nhiên, để giải pháp đạt hiệu quả cao nhất, các nước Đông Nam Á có chung tầm nhìn cần thiết kế các chương trình hợp tác kỹ lưỡng, đảm bảo rằng các chính sách không “thiên vị” - mang lại lợi ích quá nhiều cho một (hay một nhóm) quốc gia, trong khi gây bất lợi cho các quốc gia còn lại. Suy cho cùng, sự mất cân bằng về thương mại chính là gốc rễ của thương chiến Mỹ - Trung. Năm 2017 (năm đầu tiên ông Trump nắm quyền tổng thống trong nhiệm kỳ một), Bắc Kinh đạt thặng dư thương mại với Washington ở mức kỷ lục là 275,8 tỷ USD, trở thành một trong những lý do chính khiến Trump quyết định khởi động chiến tranh thương mại một năm sau đó. Đông Nam Á không nên đi trên vết xe đổ đó.   

Muốn phát triển các đặc khu một cách hiệu quả, việc nâng cao năng lực của các doanh nghiệp trong khu vực là yêu cầu tất yếu. Chính phủ các nước có thể đưa ra các ưu đãi về thuế, trợ cấp và các hỗ trợ kinh tế khác để thu hút và giữ chân các doanh nghiệp sản xuất trong nước, đặc biệt là những đơn vị có quy mô vừa và nhỏ. Những khoản tiền đó có thể giúp họ mở rộng hoạt động sản xuất, hiện đại hóa dây chuyền, và nâng cao năng suất. Đồng thời, các chính phủ cũng cần xây dựng những chương trình giáo dục đại học/dạy nghề phù hợp để đào tạo và bồi dưỡng lực lượng lao động lành nghề mà doanh nghiệp địa phương cần.  

Quan trọng hơn hết, các nước ASEAN giờ đây cần đoàn kết với nhau để điều chỉnh chuỗi cung ứng sao cho có thể tối đa hóa việc sử dụng các nguồn lực của khu vực. Cách tiếp cận này là cần thiết để giảm rủi ro từ việc thương chiến Mỹ - Trung leo thang sẽ gây thêm áp lực lên chuỗi cung ứng toàn cầu. Biện pháp cụ thể là các nước ASEAN nên xúc tiến đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại song phương hoặc đa phương để giảm thiểu hơn nữa rào cản thuế quan cũng như đơn giản hóa các thủ tục xuất nhập khẩu.     

Tuy nhiên, để các giải pháp trên thành công thì các nước ASEAN cần có sự quyết tâm đủ lớn. Bởi lẽ, các sáng kiến có thể tốn nhiều nguồn lực và thời gian để hiện thực hóa. Bên cạnh đó, chưa chắc quốc gia Đông Nam Á nào cũng muốn thúc đẩy hợp tác nội khối, có thể do không có đủ động lực để làm như vậy, hoặc chịu sức ép từ cường quốc bên ngoài (Lào và Campuchia đang ngày càng gắn bó với Trung Quốc, nhất là về thương mại và đầu tư). Vì thế, việc thúc đẩy tương tác nội khối không nhất thiết phải bao trùm trong phạm vi toàn bộ 10 quốc gia ASEAN. Thay vào đó, các nỗ lực có thể được triển khai theo từng cụm nhỏ với các nhóm tiểu đa phương (minilateral groupings) để “làm mẫu” và tạo động lực cho các nỗ lực cụ thể với kỳ vọng đạt được những bước tiến lớn hơn. 

Tóm lại, bất kỳ lựa chọn nào trong bối cảnh thương chiến Mỹ - Trung 2.0 đều có thuận lợi và rủi ro. Không có lựa chọn tốt nhất, chỉ có những lựa chọn phù hợp nhất! Một giải pháp ứng phó cần thiết là tối đa hóa lợi ích kinh tế mà Trung Quốc và Mỹ có thể mang lại cho Đông Nam Á trong khi giảm thiểu rủi ro bằng cách cố gắng không lệ thuộc vào bất kỳ bên nào. Và nỗ lực cụ thể nhất mà ASEAN có thể bắt đầu là thúc đẩy thương mại nội khối để tăng cường năng lực tự chủ và sức chống chịu trước các thách thức liên quan đến chuỗi cung ứng toàn cầu. 

Bài viết này thuộc ấn bản đặc biệt với chủ đề “Cạnh tranh Mỹ - Trung dưới thời Trump 2.0”.

Từ khoá: ASEAN Mỹ - Trung cạnh tranh thương mại Donald Trump Trump 2.0

BÀI LIÊN QUAN