Kinh tế Việt Nam năm 2024: Tăng trưởng tốt nhưng còn nhiều thách thức
Năm 2024 đánh dấu bước tiến đáng kể của kinh tế Việt Nam với mức tăng trưởng GDP 7,09%, vượt trên kỳ vọng. Tuy nhiên, tình hình quốc tế biến động, doanh nghiệp nội địa chậm chuyển đổi số, và giải ngân đầu tư công trì trệ đang thách thức sự phát triển bền vững.
Nền kinh tế khởi sắc
Tại cuộc họp báo công bố số liệu thông tin kinh tế - xã hội quý IV và năm 2024 diễn ra vào ngày 6/1, bà Nguyễn Thị Hương, Tổng Cục trưởng Tổng cục Thống kê, cho biết tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nền kinh tế Việt Nam trong năm ngoái ước tính tăng trưởng 7,09%, vượt mục tiêu 6 - 6,5% đã đề ra. Số liệu này là một tin rất đáng mừng, bởi nếu so với mức năm 2023 là 5%, có thể thấy GDP trong năm 2024 đã có sự gia tăng đáng kể. Ấn tượng nhất là quý IV với mức tăng trưởng GDP đạt 7,55%, trong khi quý I tăng 5,98%, quý II tăng 7,25% và quý III tăng 7,43%.
Theo Andrea Coppola, Trưởng Chương trình Tăng trưởng, Tài chính và Thể chế Công bằng (Programme Leader for Equitable Growth, Finance and Institutions) của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, Lào, Campuchia, tốc độ tăng trưởng GDP trong năm 2024 của Hà Nội nằm trong nhóm các nền kinh tế tăng trưởng hàng đầu trong khu vực Đông Á - Thái Bình Dương (East Asia - Pacific). Nhìn chung, kết quả ấn tượng đó xuất phát từ một số động lực đáng chú ý.
Trước hết, kim ngạch xuất nhập khẩu đã tăng vọt lên mức cao kỷ lục 786,2 tỷ USD, vượt 15,4% so với năm trước. Trong đó, Việt Nam đạt thặng dư thương mại năm thứ chín liên tiếp, tổng cộng gần 25 tỷ USD. Riêng xuất khẩu sang Mỹ đã tăng hơn 20% trong năm 2024 (năm trước đó giảm 11,3%), dẫn đầu là mặt hàng điện tử và các sản phẩm công nghệ cao khác (tăng 40%). Việc tăng trưởng về kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ có đóng góp quan trọng lên tăng trưởng GDP, vì Washington là thị trường xuất khẩu đầu tiên của Việt Nam cán mốc 100 tỷ USD.
Cùng với đó, Việt Nam tiếp tục là điểm đầu tư hấp dẫn, khi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được giải ngân trong năm 2024 đạt 25,35 tỷ USD, tăng 9,4% so với năm trước. Đây cũng là con số ấn tượng nhất từ trước tới nay. Nổi bật là những doanh nghiệp công nghệ hàng đầu như NVIDIA, Google đã bắt đầu tiếp cận và lên kế hoạch đầu tư tại thị trường Việt Nam.
Ngoài ra, trong năm ngoái, Việt Nam đã chi 7,29 tỷ USD để nhập khẩu 60,6 triệu tấn than (tăng 24,8% so với cùng kỳ), đạt mức cao nhất trong một thập kỷ qua. Động thái này đã góp phần giúp tăng sản lượng điện được sản xuất thêm 9,6% lên 293,3 tỷ kilowatt mỗi giờ, nhờ đó ngăn chặn tình trạng thiếu điện, đặc biệt là vào giai đoạn thời tiết nắng nóng gay gắt tại cả ba miền trong các tháng cao điểm mùa khô.
Bên cạnh đó, một số ngành dịch vụ đã đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng trưởng của toàn nền kinh tế có thể kể đến như: bán buôn và bán lẻ tăng 7,96% so với năm trước, đóng góp 0,80 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi tăng 10,82%, đóng góp 0,68 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,11%, đóng góp 0,43 điểm phần trăm; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 9,76%, đóng góp 0,26 điểm phần trăm.
Nhưng còn nhiều hạn chế
Là một nền kinh tế mở, Việt Nam đặc biệt dễ bị tổn thương trước biến động và rủi ro từ bên ngoài, nhất là từ những điều chỉnh chính sách của Mỹ. Bởi vì, trong số các nước ASEAN, Hà Nội là đối tác có mức độ tương tác về thương mại với Washington cao nhất. Mối lo ngại lớn nhất hiện nay là việc ông Donald Trump quay trở lại Nhà Trắng, với lời đe dọa áp thuế quan khắp thế giới. Cách tiếp cận “thuế quan là số một” của Trump có nguy cơ làm đảo lộn dòng chảy thương mại, tăng chi phí và gây ra sự trả đũa lẫn nhau, kéo theo bất ổn lan rộng.
Mặc dù Trung Quốc có khả năng tiếp tục là mục tiêu chính của cuộc chiến thương mại mà Trump theo đuổi, nhưng những hệ quả có thể được nhìn thấy ở cả những quốc gia khác, bao gồm Việt Nam. Lý do là vì để đối phó với sức ép từ Mỹ, Trung Quốc có thể sẽ làm cho đồng Nhân dân tệ (NDT) suy yếu hơn nữa, nhằm bảo vệ các doanh nghiệp xuất khẩu. Tuy nhiên, sự mất giá đó sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp đến thương mại song phương Việt - Trung, vì hàng hóa của Trung Quốc tại thị trường Trung Quốc lẫn Việt Nam đều trở nên rẻ và cạnh tranh hơn.
Một mục tiêu khác của Trump là các nước thuộc Liên minh châu Âu (EU). Khối này nhiều khả năng cũng sẽ áp dụng biện pháp tương tự Trung Quốc là giảm giá đồng tiền của mình. Và một lần nữa điều đó có thể gây bất lợi cho Việt Nam. Khi đồng Euro giảm mạnh, hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này sẽ bị cạnh tranh gay gắt hơn, gây ảnh hưởng đến tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đến EU, đặc biệt là các mặt hàng dệt may và giày dép.
Hà Nội có thể ứng phó bằng cách làm đồng tiền của mình suy yếu hơn, nhưng hệ quả kèm theo là giá hàng nhập khẩu tăng, và các khoản nợ nước ngoài bằng USD cũng tăng. Hơn nữa, trong suốt năm 2024, đồng VND đã chịu áp lực lớn vì tỷ giá hai lần vọt tăng mạnh, khiến Ngân hàng Nhà nước phải can thiệp bằng nhiều biện pháp khác nhau. Vì thế, Hà Nội có lẽ không sẵn sàng cho việc giảm tỷ giá đồng tiền hơn nữa để ứng phó với những thách thức tiềm tàng sắp tới. Một lý do bổ sung khác khiến Việt Nam phải cân nhắc kỹ trước bất kỳ quyết định giảm giá đồng tiền nào là nguy cơ bị Trump tái gắn mác thao túng tiền tệ, điều mà nhà lãnh đạo này đã làm vào tháng cuối cùng của nhiệm kỳ đầu.
Bên cạnh phụ thuộc vào những chuyển biến bên ngoài, Việt Nam cũng gặp nhiều khó khăn trong nước. Chẳng hạn, sự phục hồi của ngành bán lẻ (một trong những thước đo phản ánh mức độ tiêu dùng của người dân) trong nước vẫn chưa mấy rõ rệt, vì mức tăng trưởng doanh số vẫn thấp hơn so với trước đại dịch Covid-19. Thực tế này có thể là vì thu nhập khả dụng của người dân chưa tăng đáng kể, trong khi tình hình kinh tế trong và ngoài nước tồn tại nhiều bất ổn, khiến tâm lý tiết kiệm gia tăng, ảnh hưởng đến sức mua.
Cũng trong xu hướng đó, tình hình hoạt động của doanh nghiệp không mấy khả quan. Theo số liệu của Cục Quản lý Đăng ký Kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong 11 tháng đầu năm 2024, cả nước ghi nhận 218.522 doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường; trong đó, 147.244 doanh nghiệp đăng ký mới, giảm 0,52% cùng kỳ năm 2023. Ngược lại, có 173.179 doanh nghiệp đã rút lui khỏi thị trường, dù một nửa trong số này chọn hình thức tạm ngừng kinh doanh trong ngắn hạn. Đáng chú ý là số doanh nghiệp giải thể tăng 19,8% so với cùng kỳ năm 2023, diễn ra ở 14/17 ngành kinh doanh chính. Nhìn chung, những kết quả đó là do nhu cầu thị trường chưa phục hồi mạnh mẽ, khiến các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh, tìm kiếm đối tác, đơn hàng.
Cho đến nay, tình hình vẫn chưa khả quan hơn. Theo báo cáo chỉ số Nhà Quản trị Mua hàng (Purchasing Managers’ Index - PMI) ngành sản xuất Việt Nam do tập đoàn S&P Global (nhà cung cấp hàng đầu các chỉ số và nguồn dữ liệu xếp hạng tín dụng độc lập) công bố, sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới trong tháng 12 vừa qua có tăng nhưng mức tăng yếu nhất trong quý IV, còn số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới giảm tháng thứ hai liên tiếp. Đồng thời, cũng bởi số lượng đơn đặt hàng mới tăng yếu, chỉ số việc làm đã giảm tháng thứ ba liên tiếp.
Một hạn chế khác là doanh nghiệp Việt Nam còn chậm trong quá trình hiện đại hóa dây chuyền sản xuất. Theo một khảo sát trong giai đoạn cuối năm ngoái của Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ Công nghệ Thông tin Việt Nam, thực hiện tại các khu công nghiệp và chế xuất của Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), với sự tham gia của 98 doanh nghiệp, có đến 61% trong số đó vẫn hoàn toàn dựa vào lao động chân tay. Và số công ty có tự động hóa một phần quy trình sản xuất chỉ chiếm 25%. Thêm vào đó, có đến 1/4 đơn vị tham gia khảo sát chưa tích hợp hoặc kết nối bất kỳ công nghệ thông minh nào vào dây chuyền sản xuất của họ. Một trong những lý do là các doanh nghiệp có quy mô trung bình trở xuống thường thiếu nguồn lực (chủ yếu là kinh phí) hoặc kiến thức để triển khai thông minh hóa dây chuyền sản xuất.
Trong bối cảnh các nước nhập khẩu đang ngày càng áp dụng nhiều tiêu chuẩn, quy định mới liên quan đến chuỗi cung ứng, nguyên liệu, lao động và môi trường đối với các sản phẩm nhập khẩu, việc doanh nghiệp sản xuất Việt Nam còn chậm hiện đại hóa có thể khiến họ đánh mất cơ hội thâm nhập vào các thị trường khó tính. Chẳng hạn, trong ngành dệt may, thị trường EU ngày càng siết chặt các tiêu chuẩn nhập khẩu mặt hàng này, đưa ra nhiều yêu cầu như bắt buộc phải áp dụng hộ chiếu số cho sản phẩm dệt may. Tuy nhiên, đáng buồn là, theo ông Nguyễn Thế Phương, Chuyên gia tư vấn của FPT Digital, có đến 90% doanh nghiệp ngành dệt may đang chậm chuyển đổi số, nên không dễ đáp ứng các yêu cầu khắt khe từ phía đối tác.
Ngoài ra, một hạn chế dai dẳng là vốn đầu tư công được giải ngân quá chậm, trong khi đây lại là vấn đề quan trọng, vì theo tính toán của Tổng cục Thống kê, cứ giải ngân 1 đồng vốn đầu tư công sẽ kéo theo 1,62 đồng vốn đầu tư ngoài nhà nước vào nền kinh tế. Trong năm ngoái, Bộ Tài chính ước tính cả nước chỉ giải ngân được trên 529.632 tỷ đồng, đạt 77,55% kế hoạch Thủ tướng giao, thấp hơn con số 81,87% của năm 2023. Đầu tàu kinh tế của cả nước là TP.HCM cũng chỉ giải ngân ở mức 51% kế hoạch. Những nguyên nhân cố hữu là vướng mắc về thủ tục, chậm giải phóng mặt bằng, thiếu vật tư, thiết bị… cộng thêm một số lý do mới như thời tiết cực đoan, bất thường làm gián đoạn công tác thi công tại nhiều công trình, dự án; và tâm lý sợ sai, sợ trách nhiệm trong bối cảnh công cuộc “đốt lò” được đẩy mạnh, khiến nhiều cán bộ ngại ngần trong việc ký các quyết định triển khai.
Như vậy, tăng trưởng GDP ở mức cao là một tín hiệu đáng mừng. Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, như phụ thuộc vào diễn biến của tình hình thế giới, trong khi doanh nghiệp nội địa đang gặp nhiều khó khăn, mức độ hiện đại hóa thấp, và giải ngân đầu tư công từ nhà nước vẫn còn trì trệ, chưa có sự cải tiến đáng kể.
Cần quyết liệt giải quyết những tồn đọng
Trước những thách thức kể trên, mục tiêu tăng trưởng GDP trên 8%, thậm chí 10% mà chính phủ đặt ra cho năm nay rõ ràng là một tham vọng lớn. Để đạt được mục tiêu này, chính phủ phải quyết tâm và đưa ra những giải pháp để khắc phục các hạn chế quyết liệt và triệt để.
Trước hết, để giảm sự phụ thuộc vào các chuyển biến bên ngoài, chính phủ cần nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp nội địa, cụ thể là có chiến lược hỗ trợ để phát triển công nghiệp cơ khí, công nghiệp dịch vụ phụ trợ, công nghiệp vật liệu, phụ kiện, nông sản, thủy sản… và quan trọng hơn hết là đặt chúng trong trọng tâm xây dựng thương hiệu Việt với những sản phẩm đặc trưng, khác với các đối thủ cạnh tranh.
Thêm vào đó, các chủ doanh nghiệp cần phải thay đổi tư duy, xem chuyển đổi số, thông minh hóa dây chuyền sản xuất không phải là một việc bị ép buộc phải làm, mà đó là một cách để cải thiện năng suất, giảm chi phí, và nâng cao cơ hội kiếm được các hợp đồng lớn. Tuy nhiên, cũng phải thông cảm rằng các công ty có lý do để chậm chuyển đổi, là vì thiếu nguồn vốn đầu tư vào các giải pháp công nghệ số, cũng như thiếu nhân lực có chuyên môn cao để ứng dụng công nghệ số. Vì thế, nhà nước có thể hỗ trợ bằng cách đơn giản hóa quy trình tiếp cận tín dụng ưu đãi (hiện đang còn nhiều bất cập) cho doanh nghiệp (đặc biệt là ở quy mô vừa và nhỏ), và xem xét thành lập các trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận công nghệ hiện đại thông qua hợp tác giữa chính phủ với các tập đoàn công nghệ lớn.
Cải thiện hiệu quả đầu tư công cũng là nhiệm vụ cấp thiết. Trước hết, chính phủ cần tinh giản hơn nữa quy trình phê duyệt dự án và giải phóng mặt bằng, đồng thời có cơ chế để khuyến khích sự linh hoạt của địa phương bằng cách cho phép cơ động điều chuyển nguồn vốn từ các dự án chậm, kém hiệu quả sang dự án trọng điểm khác. Cùng với đó, địa phương phải có tư duy tích cực đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công, tránh tâm lý vì sợ sai phạm mà không làm. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, các giải pháp này đòi hỏi quá trình chuyển biến lâu dài, vì tâm lý sợ sai, thiếu tích cực trong đẩy nhanh giải ngân đầu tư công đã cắm rễ và ăn sâu vào tư duy của các cấp lãnh đạo trong hàng chục năm qua.
Ngoài ra, người tiêu dùng chính là động lực để “nuôi sống” doanh nghiệp. Vì thế, chính phủ nên có nhiều biện pháp kích cầu tiêu dùng hàng nội địa hơn, chẳng hạn xem xét giảm thuế giá trị gia tăng (VAT) xuống mức 8% vô thời hạn đối với các mặt hàng, dịch vụ do doanh nghiệp Việt Nam sản xuất, cung cấp, thay vì chỉ kéo dài đến hết tháng 6/2025.
Tóm lại, không khó để nhận ra các vấn đề mà nền kinh tế đất nước đang gặp phải và tầm quan trọng của việc đề xuất các giải pháp để khắc phục. Nhưng mấu chốt để Việt Nam đạt được mức tăng trưởng kỳ vọng trong năm 2025 vẫn là phải làm sao để thực thi các giải pháp hiệu quả. Muốn như vậy, bất kỳ giải pháp nào được chính phủ lựa chọn cũng đều cần có sự quyết liệt, không chỉ ban hành cho có, mà phải quyết tâm làm cho thành công, để sự khởi sắc của nền kinh tế mang tính bền vững hơn, không chỉ “đẹp” ở hình thức mà còn “khỏe mạnh” ở nội lực.
Nền kinh tế khởi sắc
Tại cuộc họp báo công bố số liệu thông tin kinh tế - xã hội quý IV và năm 2024 diễn ra vào ngày 6/1, bà Nguyễn Thị Hương, Tổng Cục trưởng Tổng cục Thống kê, cho biết tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nền kinh tế Việt Nam trong năm ngoái ước tính tăng trưởng 7,09%, vượt mục tiêu 6 - 6,5% đã đề ra. Số liệu này là một tin rất đáng mừng, bởi nếu so với mức năm 2023 là 5%, có thể thấy GDP trong năm 2024 đã có sự gia tăng đáng kể. Ấn tượng nhất là quý IV với mức tăng trưởng GDP đạt 7,55%, trong khi quý I tăng 5,98%, quý II tăng 7,25% và quý III tăng 7,43%.
Theo Andrea Coppola, Trưởng Chương trình Tăng trưởng, Tài chính và Thể chế Công bằng (Programme Leader for Equitable Growth, Finance and Institutions) của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, Lào, Campuchia, tốc độ tăng trưởng GDP trong năm 2024 của Hà Nội nằm trong nhóm các nền kinh tế tăng trưởng hàng đầu trong khu vực Đông Á - Thái Bình Dương (East Asia - Pacific). Nhìn chung, kết quả ấn tượng đó xuất phát từ một số động lực đáng chú ý.
Trước hết, kim ngạch xuất nhập khẩu đã tăng vọt lên mức cao kỷ lục 786,2 tỷ USD, vượt 15,4% so với năm trước. Trong đó, Việt Nam đạt thặng dư thương mại năm thứ chín liên tiếp, tổng cộng gần 25 tỷ USD. Riêng xuất khẩu sang Mỹ đã tăng hơn 20% trong năm 2024 (năm trước đó giảm 11,3%), dẫn đầu là mặt hàng điện tử và các sản phẩm công nghệ cao khác (tăng 40%). Việc tăng trưởng về kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ có đóng góp quan trọng lên tăng trưởng GDP, vì Washington là thị trường xuất khẩu đầu tiên của Việt Nam cán mốc 100 tỷ USD.
Cùng với đó, Việt Nam tiếp tục là điểm đầu tư hấp dẫn, khi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được giải ngân trong năm 2024 đạt 25,35 tỷ USD, tăng 9,4% so với năm trước. Đây cũng là con số ấn tượng nhất từ trước tới nay. Nổi bật là những doanh nghiệp công nghệ hàng đầu như NVIDIA, Google đã bắt đầu tiếp cận và lên kế hoạch đầu tư tại thị trường Việt Nam.
Ngoài ra, trong năm ngoái, Việt Nam đã chi 7,29 tỷ USD để nhập khẩu 60,6 triệu tấn than (tăng 24,8% so với cùng kỳ), đạt mức cao nhất trong một thập kỷ qua. Động thái này đã góp phần giúp tăng sản lượng điện được sản xuất thêm 9,6% lên 293,3 tỷ kilowatt mỗi giờ, nhờ đó ngăn chặn tình trạng thiếu điện, đặc biệt là vào giai đoạn thời tiết nắng nóng gay gắt tại cả ba miền trong các tháng cao điểm mùa khô.
Bên cạnh đó, một số ngành dịch vụ đã đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng trưởng của toàn nền kinh tế có thể kể đến như: bán buôn và bán lẻ tăng 7,96% so với năm trước, đóng góp 0,80 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi tăng 10,82%, đóng góp 0,68 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,11%, đóng góp 0,43 điểm phần trăm; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 9,76%, đóng góp 0,26 điểm phần trăm.
Nhưng còn nhiều hạn chế
Là một nền kinh tế mở, Việt Nam đặc biệt dễ bị tổn thương trước biến động và rủi ro từ bên ngoài, nhất là từ những điều chỉnh chính sách của Mỹ. Bởi vì, trong số các nước ASEAN, Hà Nội là đối tác có mức độ tương tác về thương mại với Washington cao nhất. Mối lo ngại lớn nhất hiện nay là việc ông Donald Trump quay trở lại Nhà Trắng, với lời đe dọa áp thuế quan khắp thế giới. Cách tiếp cận “thuế quan là số một” của Trump có nguy cơ làm đảo lộn dòng chảy thương mại, tăng chi phí và gây ra sự trả đũa lẫn nhau, kéo theo bất ổn lan rộng.
Mặc dù Trung Quốc có khả năng tiếp tục là mục tiêu chính của cuộc chiến thương mại mà Trump theo đuổi, nhưng những hệ quả có thể được nhìn thấy ở cả những quốc gia khác, bao gồm Việt Nam. Lý do là vì để đối phó với sức ép từ Mỹ, Trung Quốc có thể sẽ làm cho đồng Nhân dân tệ (NDT) suy yếu hơn nữa, nhằm bảo vệ các doanh nghiệp xuất khẩu. Tuy nhiên, sự mất giá đó sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp đến thương mại song phương Việt - Trung, vì hàng hóa của Trung Quốc tại thị trường Trung Quốc lẫn Việt Nam đều trở nên rẻ và cạnh tranh hơn.
Một mục tiêu khác của Trump là các nước thuộc Liên minh châu Âu (EU). Khối này nhiều khả năng cũng sẽ áp dụng biện pháp tương tự Trung Quốc là giảm giá đồng tiền của mình. Và một lần nữa điều đó có thể gây bất lợi cho Việt Nam. Khi đồng Euro giảm mạnh, hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này sẽ bị cạnh tranh gay gắt hơn, gây ảnh hưởng đến tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đến EU, đặc biệt là các mặt hàng dệt may và giày dép.
Hà Nội có thể ứng phó bằng cách làm đồng tiền của mình suy yếu hơn, nhưng hệ quả kèm theo là giá hàng nhập khẩu tăng, và các khoản nợ nước ngoài bằng USD cũng tăng. Hơn nữa, trong suốt năm 2024, đồng VND đã chịu áp lực lớn vì tỷ giá hai lần vọt tăng mạnh, khiến Ngân hàng Nhà nước phải can thiệp bằng nhiều biện pháp khác nhau. Vì thế, Hà Nội có lẽ không sẵn sàng cho việc giảm tỷ giá đồng tiền hơn nữa để ứng phó với những thách thức tiềm tàng sắp tới. Một lý do bổ sung khác khiến Việt Nam phải cân nhắc kỹ trước bất kỳ quyết định giảm giá đồng tiền nào là nguy cơ bị Trump tái gắn mác thao túng tiền tệ, điều mà nhà lãnh đạo này đã làm vào tháng cuối cùng của nhiệm kỳ đầu.
Bên cạnh phụ thuộc vào những chuyển biến bên ngoài, Việt Nam cũng gặp nhiều khó khăn trong nước. Chẳng hạn, sự phục hồi của ngành bán lẻ (một trong những thước đo phản ánh mức độ tiêu dùng của người dân) trong nước vẫn chưa mấy rõ rệt, vì mức tăng trưởng doanh số vẫn thấp hơn so với trước đại dịch Covid-19. Thực tế này có thể là vì thu nhập khả dụng của người dân chưa tăng đáng kể, trong khi tình hình kinh tế trong và ngoài nước tồn tại nhiều bất ổn, khiến tâm lý tiết kiệm gia tăng, ảnh hưởng đến sức mua.
Cũng trong xu hướng đó, tình hình hoạt động của doanh nghiệp không mấy khả quan. Theo số liệu của Cục Quản lý Đăng ký Kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong 11 tháng đầu năm 2024, cả nước ghi nhận 218.522 doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường; trong đó, 147.244 doanh nghiệp đăng ký mới, giảm 0,52% cùng kỳ năm 2023. Ngược lại, có 173.179 doanh nghiệp đã rút lui khỏi thị trường, dù một nửa trong số này chọn hình thức tạm ngừng kinh doanh trong ngắn hạn. Đáng chú ý là số doanh nghiệp giải thể tăng 19,8% so với cùng kỳ năm 2023, diễn ra ở 14/17 ngành kinh doanh chính. Nhìn chung, những kết quả đó là do nhu cầu thị trường chưa phục hồi mạnh mẽ, khiến các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh, tìm kiếm đối tác, đơn hàng.
Cho đến nay, tình hình vẫn chưa khả quan hơn. Theo báo cáo chỉ số Nhà Quản trị Mua hàng (Purchasing Managers’ Index - PMI) ngành sản xuất Việt Nam do tập đoàn S&P Global (nhà cung cấp hàng đầu các chỉ số và nguồn dữ liệu xếp hạng tín dụng độc lập) công bố, sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới trong tháng 12 vừa qua có tăng nhưng mức tăng yếu nhất trong quý IV, còn số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới giảm tháng thứ hai liên tiếp. Đồng thời, cũng bởi số lượng đơn đặt hàng mới tăng yếu, chỉ số việc làm đã giảm tháng thứ ba liên tiếp.
Một hạn chế khác là doanh nghiệp Việt Nam còn chậm trong quá trình hiện đại hóa dây chuyền sản xuất. Theo một khảo sát trong giai đoạn cuối năm ngoái của Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ Công nghệ Thông tin Việt Nam, thực hiện tại các khu công nghiệp và chế xuất của Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), với sự tham gia của 98 doanh nghiệp, có đến 61% trong số đó vẫn hoàn toàn dựa vào lao động chân tay. Và số công ty có tự động hóa một phần quy trình sản xuất chỉ chiếm 25%. Thêm vào đó, có đến 1/4 đơn vị tham gia khảo sát chưa tích hợp hoặc kết nối bất kỳ công nghệ thông minh nào vào dây chuyền sản xuất của họ. Một trong những lý do là các doanh nghiệp có quy mô trung bình trở xuống thường thiếu nguồn lực (chủ yếu là kinh phí) hoặc kiến thức để triển khai thông minh hóa dây chuyền sản xuất.
Trong bối cảnh các nước nhập khẩu đang ngày càng áp dụng nhiều tiêu chuẩn, quy định mới liên quan đến chuỗi cung ứng, nguyên liệu, lao động và môi trường đối với các sản phẩm nhập khẩu, việc doanh nghiệp sản xuất Việt Nam còn chậm hiện đại hóa có thể khiến họ đánh mất cơ hội thâm nhập vào các thị trường khó tính. Chẳng hạn, trong ngành dệt may, thị trường EU ngày càng siết chặt các tiêu chuẩn nhập khẩu mặt hàng này, đưa ra nhiều yêu cầu như bắt buộc phải áp dụng hộ chiếu số cho sản phẩm dệt may. Tuy nhiên, đáng buồn là, theo ông Nguyễn Thế Phương, Chuyên gia tư vấn của FPT Digital, có đến 90% doanh nghiệp ngành dệt may đang chậm chuyển đổi số, nên không dễ đáp ứng các yêu cầu khắt khe từ phía đối tác.
Ngoài ra, một hạn chế dai dẳng là vốn đầu tư công được giải ngân quá chậm, trong khi đây lại là vấn đề quan trọng, vì theo tính toán của Tổng cục Thống kê, cứ giải ngân 1 đồng vốn đầu tư công sẽ kéo theo 1,62 đồng vốn đầu tư ngoài nhà nước vào nền kinh tế. Trong năm ngoái, Bộ Tài chính ước tính cả nước chỉ giải ngân được trên 529.632 tỷ đồng, đạt 77,55% kế hoạch Thủ tướng giao, thấp hơn con số 81,87% của năm 2023. Đầu tàu kinh tế của cả nước là TP.HCM cũng chỉ giải ngân ở mức 51% kế hoạch. Những nguyên nhân cố hữu là vướng mắc về thủ tục, chậm giải phóng mặt bằng, thiếu vật tư, thiết bị… cộng thêm một số lý do mới như thời tiết cực đoan, bất thường làm gián đoạn công tác thi công tại nhiều công trình, dự án; và tâm lý sợ sai, sợ trách nhiệm trong bối cảnh công cuộc “đốt lò” được đẩy mạnh, khiến nhiều cán bộ ngại ngần trong việc ký các quyết định triển khai.
Như vậy, tăng trưởng GDP ở mức cao là một tín hiệu đáng mừng. Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, như phụ thuộc vào diễn biến của tình hình thế giới, trong khi doanh nghiệp nội địa đang gặp nhiều khó khăn, mức độ hiện đại hóa thấp, và giải ngân đầu tư công từ nhà nước vẫn còn trì trệ, chưa có sự cải tiến đáng kể.
Cần quyết liệt giải quyết những tồn đọng
Trước những thách thức kể trên, mục tiêu tăng trưởng GDP trên 8%, thậm chí 10% mà chính phủ đặt ra cho năm nay rõ ràng là một tham vọng lớn. Để đạt được mục tiêu này, chính phủ phải quyết tâm và đưa ra những giải pháp để khắc phục các hạn chế quyết liệt và triệt để.
Trước hết, để giảm sự phụ thuộc vào các chuyển biến bên ngoài, chính phủ cần nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp nội địa, cụ thể là có chiến lược hỗ trợ để phát triển công nghiệp cơ khí, công nghiệp dịch vụ phụ trợ, công nghiệp vật liệu, phụ kiện, nông sản, thủy sản… và quan trọng hơn hết là đặt chúng trong trọng tâm xây dựng thương hiệu Việt với những sản phẩm đặc trưng, khác với các đối thủ cạnh tranh.
Thêm vào đó, các chủ doanh nghiệp cần phải thay đổi tư duy, xem chuyển đổi số, thông minh hóa dây chuyền sản xuất không phải là một việc bị ép buộc phải làm, mà đó là một cách để cải thiện năng suất, giảm chi phí, và nâng cao cơ hội kiếm được các hợp đồng lớn. Tuy nhiên, cũng phải thông cảm rằng các công ty có lý do để chậm chuyển đổi, là vì thiếu nguồn vốn đầu tư vào các giải pháp công nghệ số, cũng như thiếu nhân lực có chuyên môn cao để ứng dụng công nghệ số. Vì thế, nhà nước có thể hỗ trợ bằng cách đơn giản hóa quy trình tiếp cận tín dụng ưu đãi (hiện đang còn nhiều bất cập) cho doanh nghiệp (đặc biệt là ở quy mô vừa và nhỏ), và xem xét thành lập các trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận công nghệ hiện đại thông qua hợp tác giữa chính phủ với các tập đoàn công nghệ lớn.
Cải thiện hiệu quả đầu tư công cũng là nhiệm vụ cấp thiết. Trước hết, chính phủ cần tinh giản hơn nữa quy trình phê duyệt dự án và giải phóng mặt bằng, đồng thời có cơ chế để khuyến khích sự linh hoạt của địa phương bằng cách cho phép cơ động điều chuyển nguồn vốn từ các dự án chậm, kém hiệu quả sang dự án trọng điểm khác. Cùng với đó, địa phương phải có tư duy tích cực đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công, tránh tâm lý vì sợ sai phạm mà không làm. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, các giải pháp này đòi hỏi quá trình chuyển biến lâu dài, vì tâm lý sợ sai, thiếu tích cực trong đẩy nhanh giải ngân đầu tư công đã cắm rễ và ăn sâu vào tư duy của các cấp lãnh đạo trong hàng chục năm qua.
Ngoài ra, người tiêu dùng chính là động lực để “nuôi sống” doanh nghiệp. Vì thế, chính phủ nên có nhiều biện pháp kích cầu tiêu dùng hàng nội địa hơn, chẳng hạn xem xét giảm thuế giá trị gia tăng (VAT) xuống mức 8% vô thời hạn đối với các mặt hàng, dịch vụ do doanh nghiệp Việt Nam sản xuất, cung cấp, thay vì chỉ kéo dài đến hết tháng 6/2025.
Tóm lại, không khó để nhận ra các vấn đề mà nền kinh tế đất nước đang gặp phải và tầm quan trọng của việc đề xuất các giải pháp để khắc phục. Nhưng mấu chốt để Việt Nam đạt được mức tăng trưởng kỳ vọng trong năm 2025 vẫn là phải làm sao để thực thi các giải pháp hiệu quả. Muốn như vậy, bất kỳ giải pháp nào được chính phủ lựa chọn cũng đều cần có sự quyết liệt, không chỉ ban hành cho có, mà phải quyết tâm làm cho thành công, để sự khởi sắc của nền kinh tế mang tính bền vững hơn, không chỉ “đẹp” ở hình thức mà còn “khỏe mạnh” ở nội lực.
Từ khoá: kinh tế Việt Nam phát triển bền vững đầu tư công chuyển đổi số