Việt Nam có thật sự quan trọng với Mỹ?
Bài viết xem xét tầm quan trọng của Việt Nam với Mỹ trên phương diện an ninh và kinh tế. Tác giả cho rằng, khác biệt và hạn chế trong quan hệ Việt - Mỹ vẫn rất lớn và sẽ tác động đến tính thực chất của hợp tác song phương, kể cả khi hai nước đã tuyên bố nâng cấp quan hệ từ “đối tác toàn diện” lên “đối tác chiến lược toàn diện”. Bên cạnh đó, bài viết cũng xem xét khả năng Việt Nam đóng vai trò quan trọng hơn trong chính sách đối ngoại của Mỹ.
Sự kiện Việt Nam và Mỹ nâng cấp quan hệ từ “đối tác toàn diện” lên “đối tác chiến lược toàn diện” hôm 10/9 là cột mốc quan trọng trong quan hệ song phương, giúp mở ra triển vọng thúc đẩy hợp tác giữa hai nước. Tuy nhiên, quan hệ được nâng cấp mang lại lợi ích cho Mỹ đến mức nào, và Việt Nam có tầm quan trọng ra sao đối với Mỹ? Bên cạnh đó, liệu ta có thể kỳ vọng bao nhiêu vào tính thực chất của quan hệ “đối tác chiến lược toàn diện” Việt - Mỹ?
Việt Nam quan trọng với Mỹ ra sao?
Việc nâng cấp quan hệ với Việt Nam có ý nghĩa then chốt đối với lợi ích của Mỹ ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Bên cạnh giúp Mỹ tái khẳng định cam kết thúc đẩy hợp tác với các đồng minh tại khu vực, việc nâng cấp quan hệ với Việt Nam còn cho thấy Mỹ mong muốn đảm bảo các lợi ích kinh tế, như dần dịch chuyển chuỗi cung ứng của Mỹ khỏi Trung Quốc sang các quốc gia cùng chí hướng (like-minded nations) (trong đó có Việt Nam).
Khía cạnh an ninh cần được chú ý trong sự kiện nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ. Cụ thể, việc Mỹ nâng cấp quan hệ với Việt Nam là một động thái nhằm vào Trung Quốc. Đối với Mỹ, Trung Quốc không chỉ có mâu thuẫn với Mỹ về “ý thức hệ” mà còn là cường quốc đang trỗi dậy đầy tham vọng, và có nhiều hành động nhằm thay đổi trật tự nguyên trạng (status quo) mà Mỹ đang cầm trịch. Các hành động của Trung Quốc như gây sức ép với các quốc gia có tranh chấp ở Biển Đông, tăng cường tập trận “phong tỏa trên không và trên biển” xung quanh Đài Loan khiến khu vực bất ổn và gây tổn hại đến lợi ích của Mỹ tại đây. Trước thực tế này, Mỹ coi sự “trỗi dậy” của Trung Quốc là mối đe dọa ở cấp độ chiến lược tổng thể, từ đó nỗ lực hạn chế Trung Quốc vươn lên và thay thế vị trí siêu cường của mình.
Với lịch sử nhiều thăng trầm trong quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam là đối tác có giá trị chiến lược vì có thể giúp Washington gia tăng đối trọng với Bắc Kinh. Về ưu thế địa chính trị, Việt Nam là cầu nối giữa Đông Nam Á hải đảo và Đông Nam Á lục địa, có vị trí địa lý thuận lợi trong việc tiếp cận và kiểm soát tuyến hàng hải ở Biển Đông, vốn là một trong những mối quan tâm sống còn đối với Mỹ và các đồng minh then chốt của nước này (như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Philippines). Do đó, Mỹ có thể “kiềm chế” và gia tăng áp lực chính trị lẫn quốc phòng lên Trung Quốc thông qua thúc đẩy quan hệ với Việt Nam, quốc gia có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông với cường quốc này.
Bên cạnh đó, luận điểm về an ninh cũng đáng chú ý khi nhấn mạnh việc Mỹ cần Việt Nam để chiếm ưu thế quân sự trong cạnh tranh với Trung Quốc. Thứ nhất, xét về địa lý, Việt Nam có ưu thế về không gian thọc sâu chiến lược (strategic depth) với lãnh thổ dài và địa hình hiểm trở. Vị trí địa lý này giúp Mỹ có thuận lợi khi hợp tác với Việt Nam, nhất là với việc triển khai lực lượng quân sự dễ dàng và đảm bảo hơn trong trường hợp có xung đột vũ trang chính quy diễn ra với Trung Quốc. Tuy nhiên, Việt Nam không có tầm quan trọng địa chính trị bằng Philippines - đối tác quân sự lâu đời nhất của Mỹ tại khu vực, nhất là trong việc cung cấp nền tảng thuận lợi về địa lý và chính trị để Mỹ can thiệp và phòng vệ trong trường hợp xảy ra xung đột giữa Trung Quốc và Đài Loan. Cụ thể, việc hợp tác với Philippines gần đây mang lại cho Mỹ 4 căn cứ quân sự, 3 trong số đó ở đảo Luzon gần Đài Loan (căn cứ còn lại ở tỉnh Palawan của Philippines). Vị trí của chúng có giá trị chiến lược, đặc biệt là căn cứ hải quân Camilo Osias chỉ cách Kaohsiung, thành phố lớn thứ 3 tại Đài Loan tầm 500 km (310 dặm) và căn cứ đặt tại Balabac, gần tuyến đường hàng hải trọng yếu tại Biển Đông, nơi Manila và Bắc Kinh có tranh chấp chủ quyền.
Tiếp theo, luận điểm này cho rằng Mỹ có thể tận dụng lịch sử xung đột Việt - Trung và mâu thuẫn tiềm tàng giữa hai nước, nhất là trong vấn đề chủ quyền Biển Đông, nhằm đặt Việt Nam vào thế đối trọng với Trung Quốc. Tuy nhiên, có những điều bất hợp lý xung quanh lập luận này. Thứ nhất, quan điểm này đã không xét đến các nguyên tắc trong chính sách quốc phòng của Việt Nam (không tham gia liên minh quân sự, không liên kết với nước này để chống nước khác, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế). Vì Việt Nam kiên định với chính sách quốc phòng này, nên việc thiếu cân nhắc các nguyên tắc của quốc gia này sẽ tạo ra sự bất đồng về phương châm hoạt động (modus operandi) trong hợp tác quốc phòng Việt - Mỹ, từ đó phá vỡ khả năng hợp tác lâu dài giữa hai nước.
Thứ hai, xét về mức độ mâu thuẫn với Trung Quốc cũng như ý chí và sự cảnh giác chống lại cường quốc này thì Đài Loan mới là đồng minh có giá trị cao nhất của Mỹ trong khu vực. Thứ ba, xét riêng về vấn đề Biển Đông, Mỹ không cần Việt Nam để thể hiện ảnh hưởng của cường quốc này ở khu vực, khi mà Mỹ đã tiến hành hàng loạt hoạt động tuần tra đảm bảo tự do hàng hải ở khu vực này trong quá khứ (FONOPS). Thực tế, có nhiều lần Việt Nam không tham gia tập trận cùng Mỹ trong các hoạt động nói trên, điển hình là các hoạt động mang tính quân sự cao như tập trận Vành đai Thái Bình Dương (RIMPAC) năm 2020 và 2022. Hơn nữa, Mỹ hoàn toàn có thể đảm bảo sự hiện diện của cường quốc này ở Biển Đông thông qua các căn cứ quân sự mới triển khai ở Philippines (bao gồm căn cứ hải quân Camilo Osias và sân bay quốc tế Lal-lo tại Cagayan; trại Melchor Dela Cruz ở Isabela; và hiện diện quân sự tại đảo Balabac thuộc tỉnh Palawan) hay thậm chí là xa hơn thế, như từ Guam và Nhật Bản.
Cuối cùng, khi nhắc đến mối uy hiếp lớn nhất đối với Trung Quốc ở khu vực, ta không thể bỏ sót đồng minh quan trọng của Mỹ là Nhật Bản. Nhật Bản mới thực sự là “cốt lõi” trong chiến lược ngăn chặn mà Mỹ áp dụng lên Trung Quốc, nhất là trong bối cảnh Nhật Bản đang đẩy mạnh tăng cường quân bị. Nhật Bản dự kiến sẽ chi khoảng 7 nghìn tỷ Yên (gần 50 tỷ USD) cho quốc phòng trong năm tài khóa 2024, một phần trong kế hoạch đầu tư 2% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vào lĩnh vực này cho đến năm 2027, hướng tới tăng cường năng lực hậu cần, phòng ngự, hải-không quân trong trường hợp có xung đột vũ trang diễn ra, điều mà nhiều nhà quan sát cho rằng Nhật hướng đến để đảm bảo an ninh trước mối đe dọa từ Trung Quốc.
Với Mỹ, khi xét về tầm quan trọng địa chiến lược ở khu vực, nhất là nhằm gia tăng đối trọng với Trung Quốc, thì Việt Nam chỉ xếp vị trí thứ tư (sau Nhật Bản, Đài Loan và Philippines). Các đối tác này có quan hệ thân cận hơn và có lịch sử hợp tác lâu đời hơn với Mỹ, vì vậy mà, có thể mang lại cho Mỹ nhiều lợi ích về an ninh và quốc phòng hơn là Việt Nam.
Tạm gác lại luận điểm về an ninh, ta hãy tìm hiểu phương diện kinh tế để xem xét giá trị của Việt Nam với Mỹ và tại sao Mỹ mong muốn nâng cấp quan hệ với Việt Nam. Luận điểm này bao gồm hai nội dung lớn: thứ nhất là việc Mỹ từng bước chuyển dịch nguồn cung và sản xuất chất bán dẫn ra khỏi Trung Quốc nhằm đảm bảo an ninh quốc gia, thứ hai là về giá trị thị trường và hợp tác kinh tế mà Việt Nam có thể mang lại cho Mỹ.
Không thể phủ nhận rằng an ninh bán dẫn, và những vấn đề kèm theo như khai thác nguồn nguyên liệu đất hiếm và chuyển dịch dây chuyền công nghệ sản xuất, đang là chủ đề nóng được Mỹ quan tâm đặc biệt. Nhiều luồng quan điểm cho rằng việc nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ có nguồn gốc trực tiếp từ mối bận tâm này của Washington. Trước hết, quan điểm này không phải là vô căn cứ bởi trữ lượng và hàm lượng đất hiếm (nguyên liệu rất cần thiết trong sản xuất chất bán dẫn) hiện có của Việt Nam là rất lớn, xếp thứ ba trên toàn thế giới. Và quốc gia xếp thứ nhất với hơn 98% thị phần là Trung Quốc - đối thủ cạnh tranh trực tiếp của Mỹ. Khía cạnh này cũng được thể hiện trong các nội dung hợp tác Việt - Mỹ được công bố sau sự kiện nâng cấp quan hệ hai nước. Điển hình là tại hội nghị cấp cao hôm 11/9, các doanh nghiệp công nghệ hàng đầu của Mỹ ký kết hàng loạt thỏa thuận thương mại trị giá hàng tỷ USD xoay quanh lĩnh vực sản xuất và chế tạo công nghệ cao. Trong số đó, nổi bật là các dự án xây dựng nhà máy chip của Amkor trị giá 1,6 tỷ USD và Intel trị giá 1,5 tỷ USD, thể hiện trực tiếp mối quan tâm của Mỹ đối với chất bán dẫn.
Tuy vậy, những động thái thể hiện quyết tâm hợp tác về công nghệ cao, bán dẫn và đất hiếm ấy chủ yếu đến từ sự tích cực và lạc quan của phía Mỹ. Bởi lẽ, những kỳ vọng và các hoạt động ký kết nêu trên mới chỉ “nằm trên giấy” và chưa được triển khai trên thực tế. Hiện nay, khả năng khai thác và tận dụng nguồn tài nguyên đất hiếm của Việt Nam còn cực kỳ hạn chế, đặc biệt là do các cấp cơ sở quản lý kém. Điển hình là các vụ việc khai thác lậu và buôn bán lậu hàng nghìn tấn đất hiếm ra nước ngoài được điều tra và công bố gần đây. Do đó, khó có thể lạc quan về viễn cảnh mà hợp tác về công nghệ cao và sản xuất chất bán dẫn giữa Việt Nam và Mỹ sẽ sớm thành công, khi mà từ khâu cơ bản nhất là nguyên liệu đã có nguy cơ “chết yểu”.
Lập luận về kinh tế cũng cho rằng Việt Nam sẽ tăng cường hợp tác kinh tế với Mỹ và sẽ trở thành một thị trường có giá trị hơn tại khu vực. Thực tế, tại Đông Bắc Á, lợi ích của Mỹ đã được những đồng minh thân thiết hơn đảm bảo: Đài Loan cung cấp công nghệ bán dẫn - một ngành công nghiệp triệu USD và là chìa khóa của chuỗi cung ứng công nghệ cao. Đồng thời, Mỹ cũng có hai đồng minh thân cận là Hàn Quốc và Nhật Bản – các đối tác kinh tế, thị trường xuất khẩu và đồng minh quân sự hết sức quan trọng của Mỹ. Đây là những giá trị mà Việt Nam, cho dù sở hữu quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Mỹ, cũng khó có thể thay thế trong ngắn hạn.
Cần chú ý là, nhân tố chưa được đề cập nhưng lại có ảnh hưởng đến tính thực chất của việc nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ là các khác biệt về chính trị. Việc có chung các lợi ích chiến lược không đồng nghĩa với việc hai quốc gia sẽ “phớt lờ” các khác biệt về chính trị. Dù đã khẳng định việc tôn trọng chế độ chính trị của Việt Nam trong Tuyên bố chung về nâng cấp quan hệ song phương, Mỹ vẫn giữ nguyên ý kiến về một số chính sách của Việt Nam, bao gồm tự do ngôn luận, tôn giáo, sắc tộc, hệ thống tư pháp… Theo báo cáo về nhân quyền của Bộ Ngoại giao Mỹ năm 2022, Mỹ vẫn đánh giá Việt Nam “có nhiều vấn đề nhân quyền nghiêm trọng”, và chính quyền Việt Nam thiếu tự do về internet, cấm đoán, can thiệp phi pháp vào tự do thông tin, biểu đạt và tự do cá nhân. Một trong những chỉ trích nặng nề nhất mà Mỹ nhắm vào hệ thống luật pháp của Việt Nam là Mỹ cho rằng vẫn còn nhiều vụ việc xét xử oan sai, các án tù, án tử được đưa ra không hợp lý, và tù phạm bị đối xử vô nhân đạo. Các khác biệt này tạo ra nhiều rào cản khiến hai nước khó xây dựng được một lòng tin sâu sắc và gắn kết lâu dài, nếu như không có những chuyển biến thật sự mạnh mẽ và tích cực trong thời gian tới.
Cân bằng giữa lý tưởng và hiện thực?
Việt Nam và Mỹ vẫn cần vượt qua nhiều thách thức (như đã bàn ở trên) dù hai nước đã đạt được thứ bậc cao nhất trong nấc thang quan hệ ngoại giao. Các thách thức ấy, nếu không được giải quyết, sẽ ảnh hưởng đến vị thế của Hà Nội trong các chính sách của Washington. Như vậy, Việt Nam có thể trở nên quan trọng hơn với Mỹ trong những trường hợp nào?
Trường hợp thứ nhất là Quốc dân Đảng giành chiến thắng trong cuộc bầu cử ở Đài Loan vào năm 2024, từ đó dần khiến Đài Loan ngả về phía Trung Quốc Đại lục, qua đó làm suy giảm tầm quan trọng của Đài Loan trong chiến lược an ninh của Mỹ. Khả năng thứ hai là Philippines có một lãnh đạo mới thân Trung Quốc hơn, từ đó hạn chế những hợp tác về quốc phòng mà Manila đã và đang có với Washington, ví dụ như nhóm 4 căn cứ quân sự của Mỹ đặt tại phía Bắc Philippines. Trường hợp cuối cùng là khi các quốc gia trong khu vực có những biến động chính trị to lớn, qua đó làm thay đổi cục diện và phân bổ ảnh hưởng của các cường quốc. Chỉ khi những điều trên xảy ra thì Việt Nam mới có thể gia tăng tầm quan trọng thực chất trong chính sách đối ngoại của Mỹ.
Không thể kỳ vọng quá nhiều hay lệ thuộc vào Mỹ, vì bản chất của chính trị vẫn là hiện thực hơn là sự trông đợi. Và việc hoạch định tương lai của một quốc gia, nếu chỉ căn cứ vào những giả định, là rất bấp bênh và không đủ cơ sở. Việt Nam vẫn quan trọng với Mỹ nhưng không đem lại lợi ích mang ý nghĩa “then chốt” khả dĩ thay thế các đồng minh thân cận của Mỹ tại khu vực. Do đó, Việt Nam khó có thể là lựa chọn hàng đầu trong nhận thức của các nhà hoạch định chính sách ở Mỹ. Bên cạnh đó, là một siêu cường với tầm ảnh hưởng toàn cầu và là mối quan tâm chủ yếu trong chính sách đối ngoại của nhiều quốc gia, Mỹ có nhiều mối bận tâm khác hơn là những cam kết quá sâu sắc với Việt Nam - một quốc gia tầm trung ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Chưa kể, ưu tiên chính sách của các nhà lãnh đạo Mỹ thường là thỏa mãn sự trông đợi của công chúng với các thiết chế xã hội và chính sách đối nội của mình.
Giới lãnh đạo Việt Nam từ lâu đã nhận thức rằng không thể quá lệ thuộc vào sự hỗ trợ bên ngoài, và nội lực của quốc gia vẫn là nhân tố quan trọng nhất, như lời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc vào tháng 12/2021: “Ý chí tự lực, tự cường và nội lực là quyết định, cơ bản, lâu dài; sự ủng hộ, giúp đỡ và nguồn lực từ bên ngoài là vô cùng quan trọng”.
Kể từ công cuộc “Đổi mới” (1986) đến nay, Việt Nam vẫn chú ý “đa dạng hoá, đa phương hoá” quan hệ quốc tế và đóng vai trò tích cực trong các vấn đề chung của thế giới. Việt Nam đang nỗ lực gia tăng vị thế quốc gia thông qua đẩy mạnh hợp tác khu vực và quốc tế, tăng cường ngoại giao đa phương, tích cực thể hiện tinh thần trách nhiệm trong các hoạt động đối ngoại (khẳng định vai trò tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 43, góp mặt tại Hội nghị G7 mở rộng, giữ vững quan hệ Việt - Trung, củng cố quan hệ Việt - Nhật, Việt - Pháp, thúc đẩy quan hệ song phương giữa Việt Nam với Australia, Philippines, Indonesia...). Đáng chú ý, Việt Nam đang nỗ lực đa dạng hóa các nguồn cung quốc phòng tiềm năng nhưng vẫn giữ kế hoạch mua vũ khí từ Nga mặc cho các trừng phạt của Mỹ lên quốc gia này. Cho đến nay, Việt Nam vẫn theo đuổi chính sách đối ngoại độc lập và cân bằng với các cường quốc.
Vậy nên, sự kiện nâng cấp quan hệ với Mỹ không đại diện cho sự thay đổi mang tính bước ngoặt trong quỹ đạo quan hệ đối ngoại của Việt Nam.
Nhìn chung, trong quan hệ với Mỹ, Việt Nam nhận thức rõ tầm quan trọng của mình. Việc nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ là tín hiệu tốt và hứa hẹn cho nền ngoại giao Việt Nam, nhưng mối quan hệ được nâng cấp chỉ đơn giản là sự tái ghi nhận các liên kết chặt chẽ, đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế, giữa hai nước. Cũng cần chú ý, quan hệ đối tác chiến lược toàn diện là một tuyên bố chính trị, và các cam kết không mang tính ràng buộc về pháp lý. Các thỏa thuận chỉ có hiệu quả khi chúng ràng buộc các bên liên quan với những mục tiêu chung cùng sự tôn trọng lẫn nhau. Muốn quan hệ hai nước đi vào thực chất đúng với tinh thần “đối tác chiến lược toàn diện” thì Việt Nam và Mỹ cần xây dựng niềm tin, thúc đẩy hợp tác và tìm được lợi ích và tiếng nói chung lớn hơn.
* Bài viết thể hiện quan điểm của riêng tác giả và không đại diện cho quan điểm của “Vietnam Strategic Forum” hay bất kỳ đơn vị nào mà tác giả cộng tác hay làm việc.
Sự kiện Việt Nam và Mỹ nâng cấp quan hệ từ “đối tác toàn diện” lên “đối tác chiến lược toàn diện” hôm 10/9 là cột mốc quan trọng trong quan hệ song phương, giúp mở ra triển vọng thúc đẩy hợp tác giữa hai nước. Tuy nhiên, quan hệ được nâng cấp mang lại lợi ích cho Mỹ đến mức nào, và Việt Nam có tầm quan trọng ra sao đối với Mỹ? Bên cạnh đó, liệu ta có thể kỳ vọng bao nhiêu vào tính thực chất của quan hệ “đối tác chiến lược toàn diện” Việt - Mỹ?
Việt Nam quan trọng với Mỹ ra sao?
Việc nâng cấp quan hệ với Việt Nam có ý nghĩa then chốt đối với lợi ích của Mỹ ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Bên cạnh giúp Mỹ tái khẳng định cam kết thúc đẩy hợp tác với các đồng minh tại khu vực, việc nâng cấp quan hệ với Việt Nam còn cho thấy Mỹ mong muốn đảm bảo các lợi ích kinh tế, như dần dịch chuyển chuỗi cung ứng của Mỹ khỏi Trung Quốc sang các quốc gia cùng chí hướng (like-minded nations) (trong đó có Việt Nam).
Khía cạnh an ninh cần được chú ý trong sự kiện nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ. Cụ thể, việc Mỹ nâng cấp quan hệ với Việt Nam là một động thái nhằm vào Trung Quốc. Đối với Mỹ, Trung Quốc không chỉ có mâu thuẫn với Mỹ về “ý thức hệ” mà còn là cường quốc đang trỗi dậy đầy tham vọng, và có nhiều hành động nhằm thay đổi trật tự nguyên trạng (status quo) mà Mỹ đang cầm trịch. Các hành động của Trung Quốc như gây sức ép với các quốc gia có tranh chấp ở Biển Đông, tăng cường tập trận “phong tỏa trên không và trên biển” xung quanh Đài Loan khiến khu vực bất ổn và gây tổn hại đến lợi ích của Mỹ tại đây. Trước thực tế này, Mỹ coi sự “trỗi dậy” của Trung Quốc là mối đe dọa ở cấp độ chiến lược tổng thể, từ đó nỗ lực hạn chế Trung Quốc vươn lên và thay thế vị trí siêu cường của mình.
Với lịch sử nhiều thăng trầm trong quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam là đối tác có giá trị chiến lược vì có thể giúp Washington gia tăng đối trọng với Bắc Kinh. Về ưu thế địa chính trị, Việt Nam là cầu nối giữa Đông Nam Á hải đảo và Đông Nam Á lục địa, có vị trí địa lý thuận lợi trong việc tiếp cận và kiểm soát tuyến hàng hải ở Biển Đông, vốn là một trong những mối quan tâm sống còn đối với Mỹ và các đồng minh then chốt của nước này (như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Philippines). Do đó, Mỹ có thể “kiềm chế” và gia tăng áp lực chính trị lẫn quốc phòng lên Trung Quốc thông qua thúc đẩy quan hệ với Việt Nam, quốc gia có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông với cường quốc này.
Bên cạnh đó, luận điểm về an ninh cũng đáng chú ý khi nhấn mạnh việc Mỹ cần Việt Nam để chiếm ưu thế quân sự trong cạnh tranh với Trung Quốc. Thứ nhất, xét về địa lý, Việt Nam có ưu thế về không gian thọc sâu chiến lược (strategic depth) với lãnh thổ dài và địa hình hiểm trở. Vị trí địa lý này giúp Mỹ có thuận lợi khi hợp tác với Việt Nam, nhất là với việc triển khai lực lượng quân sự dễ dàng và đảm bảo hơn trong trường hợp có xung đột vũ trang chính quy diễn ra với Trung Quốc. Tuy nhiên, Việt Nam không có tầm quan trọng địa chính trị bằng Philippines - đối tác quân sự lâu đời nhất của Mỹ tại khu vực, nhất là trong việc cung cấp nền tảng thuận lợi về địa lý và chính trị để Mỹ can thiệp và phòng vệ trong trường hợp xảy ra xung đột giữa Trung Quốc và Đài Loan. Cụ thể, việc hợp tác với Philippines gần đây mang lại cho Mỹ 4 căn cứ quân sự, 3 trong số đó ở đảo Luzon gần Đài Loan (căn cứ còn lại ở tỉnh Palawan của Philippines). Vị trí của chúng có giá trị chiến lược, đặc biệt là căn cứ hải quân Camilo Osias chỉ cách Kaohsiung, thành phố lớn thứ 3 tại Đài Loan tầm 500 km (310 dặm) và căn cứ đặt tại Balabac, gần tuyến đường hàng hải trọng yếu tại Biển Đông, nơi Manila và Bắc Kinh có tranh chấp chủ quyền.
Tiếp theo, luận điểm này cho rằng Mỹ có thể tận dụng lịch sử xung đột Việt - Trung và mâu thuẫn tiềm tàng giữa hai nước, nhất là trong vấn đề chủ quyền Biển Đông, nhằm đặt Việt Nam vào thế đối trọng với Trung Quốc. Tuy nhiên, có những điều bất hợp lý xung quanh lập luận này. Thứ nhất, quan điểm này đã không xét đến các nguyên tắc trong chính sách quốc phòng của Việt Nam (không tham gia liên minh quân sự, không liên kết với nước này để chống nước khác, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế). Vì Việt Nam kiên định với chính sách quốc phòng này, nên việc thiếu cân nhắc các nguyên tắc của quốc gia này sẽ tạo ra sự bất đồng về phương châm hoạt động (modus operandi) trong hợp tác quốc phòng Việt - Mỹ, từ đó phá vỡ khả năng hợp tác lâu dài giữa hai nước.
Thứ hai, xét về mức độ mâu thuẫn với Trung Quốc cũng như ý chí và sự cảnh giác chống lại cường quốc này thì Đài Loan mới là đồng minh có giá trị cao nhất của Mỹ trong khu vực. Thứ ba, xét riêng về vấn đề Biển Đông, Mỹ không cần Việt Nam để thể hiện ảnh hưởng của cường quốc này ở khu vực, khi mà Mỹ đã tiến hành hàng loạt hoạt động tuần tra đảm bảo tự do hàng hải ở khu vực này trong quá khứ (FONOPS). Thực tế, có nhiều lần Việt Nam không tham gia tập trận cùng Mỹ trong các hoạt động nói trên, điển hình là các hoạt động mang tính quân sự cao như tập trận Vành đai Thái Bình Dương (RIMPAC) năm 2020 và 2022. Hơn nữa, Mỹ hoàn toàn có thể đảm bảo sự hiện diện của cường quốc này ở Biển Đông thông qua các căn cứ quân sự mới triển khai ở Philippines (bao gồm căn cứ hải quân Camilo Osias và sân bay quốc tế Lal-lo tại Cagayan; trại Melchor Dela Cruz ở Isabela; và hiện diện quân sự tại đảo Balabac thuộc tỉnh Palawan) hay thậm chí là xa hơn thế, như từ Guam và Nhật Bản.
Cuối cùng, khi nhắc đến mối uy hiếp lớn nhất đối với Trung Quốc ở khu vực, ta không thể bỏ sót đồng minh quan trọng của Mỹ là Nhật Bản. Nhật Bản mới thực sự là “cốt lõi” trong chiến lược ngăn chặn mà Mỹ áp dụng lên Trung Quốc, nhất là trong bối cảnh Nhật Bản đang đẩy mạnh tăng cường quân bị. Nhật Bản dự kiến sẽ chi khoảng 7 nghìn tỷ Yên (gần 50 tỷ USD) cho quốc phòng trong năm tài khóa 2024, một phần trong kế hoạch đầu tư 2% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vào lĩnh vực này cho đến năm 2027, hướng tới tăng cường năng lực hậu cần, phòng ngự, hải-không quân trong trường hợp có xung đột vũ trang diễn ra, điều mà nhiều nhà quan sát cho rằng Nhật hướng đến để đảm bảo an ninh trước mối đe dọa từ Trung Quốc.
Với Mỹ, khi xét về tầm quan trọng địa chiến lược ở khu vực, nhất là nhằm gia tăng đối trọng với Trung Quốc, thì Việt Nam chỉ xếp vị trí thứ tư (sau Nhật Bản, Đài Loan và Philippines). Các đối tác này có quan hệ thân cận hơn và có lịch sử hợp tác lâu đời hơn với Mỹ, vì vậy mà, có thể mang lại cho Mỹ nhiều lợi ích về an ninh và quốc phòng hơn là Việt Nam.
Tạm gác lại luận điểm về an ninh, ta hãy tìm hiểu phương diện kinh tế để xem xét giá trị của Việt Nam với Mỹ và tại sao Mỹ mong muốn nâng cấp quan hệ với Việt Nam. Luận điểm này bao gồm hai nội dung lớn: thứ nhất là việc Mỹ từng bước chuyển dịch nguồn cung và sản xuất chất bán dẫn ra khỏi Trung Quốc nhằm đảm bảo an ninh quốc gia, thứ hai là về giá trị thị trường và hợp tác kinh tế mà Việt Nam có thể mang lại cho Mỹ.
Không thể phủ nhận rằng an ninh bán dẫn, và những vấn đề kèm theo như khai thác nguồn nguyên liệu đất hiếm và chuyển dịch dây chuyền công nghệ sản xuất, đang là chủ đề nóng được Mỹ quan tâm đặc biệt. Nhiều luồng quan điểm cho rằng việc nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ có nguồn gốc trực tiếp từ mối bận tâm này của Washington. Trước hết, quan điểm này không phải là vô căn cứ bởi trữ lượng và hàm lượng đất hiếm (nguyên liệu rất cần thiết trong sản xuất chất bán dẫn) hiện có của Việt Nam là rất lớn, xếp thứ ba trên toàn thế giới. Và quốc gia xếp thứ nhất với hơn 98% thị phần là Trung Quốc - đối thủ cạnh tranh trực tiếp của Mỹ. Khía cạnh này cũng được thể hiện trong các nội dung hợp tác Việt - Mỹ được công bố sau sự kiện nâng cấp quan hệ hai nước. Điển hình là tại hội nghị cấp cao hôm 11/9, các doanh nghiệp công nghệ hàng đầu của Mỹ ký kết hàng loạt thỏa thuận thương mại trị giá hàng tỷ USD xoay quanh lĩnh vực sản xuất và chế tạo công nghệ cao. Trong số đó, nổi bật là các dự án xây dựng nhà máy chip của Amkor trị giá 1,6 tỷ USD và Intel trị giá 1,5 tỷ USD, thể hiện trực tiếp mối quan tâm của Mỹ đối với chất bán dẫn.
Tuy vậy, những động thái thể hiện quyết tâm hợp tác về công nghệ cao, bán dẫn và đất hiếm ấy chủ yếu đến từ sự tích cực và lạc quan của phía Mỹ. Bởi lẽ, những kỳ vọng và các hoạt động ký kết nêu trên mới chỉ “nằm trên giấy” và chưa được triển khai trên thực tế. Hiện nay, khả năng khai thác và tận dụng nguồn tài nguyên đất hiếm của Việt Nam còn cực kỳ hạn chế, đặc biệt là do các cấp cơ sở quản lý kém. Điển hình là các vụ việc khai thác lậu và buôn bán lậu hàng nghìn tấn đất hiếm ra nước ngoài được điều tra và công bố gần đây. Do đó, khó có thể lạc quan về viễn cảnh mà hợp tác về công nghệ cao và sản xuất chất bán dẫn giữa Việt Nam và Mỹ sẽ sớm thành công, khi mà từ khâu cơ bản nhất là nguyên liệu đã có nguy cơ “chết yểu”.
Lập luận về kinh tế cũng cho rằng Việt Nam sẽ tăng cường hợp tác kinh tế với Mỹ và sẽ trở thành một thị trường có giá trị hơn tại khu vực. Thực tế, tại Đông Bắc Á, lợi ích của Mỹ đã được những đồng minh thân thiết hơn đảm bảo: Đài Loan cung cấp công nghệ bán dẫn - một ngành công nghiệp triệu USD và là chìa khóa của chuỗi cung ứng công nghệ cao. Đồng thời, Mỹ cũng có hai đồng minh thân cận là Hàn Quốc và Nhật Bản – các đối tác kinh tế, thị trường xuất khẩu và đồng minh quân sự hết sức quan trọng của Mỹ. Đây là những giá trị mà Việt Nam, cho dù sở hữu quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Mỹ, cũng khó có thể thay thế trong ngắn hạn.
Cần chú ý là, nhân tố chưa được đề cập nhưng lại có ảnh hưởng đến tính thực chất của việc nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ là các khác biệt về chính trị. Việc có chung các lợi ích chiến lược không đồng nghĩa với việc hai quốc gia sẽ “phớt lờ” các khác biệt về chính trị. Dù đã khẳng định việc tôn trọng chế độ chính trị của Việt Nam trong Tuyên bố chung về nâng cấp quan hệ song phương, Mỹ vẫn giữ nguyên ý kiến về một số chính sách của Việt Nam, bao gồm tự do ngôn luận, tôn giáo, sắc tộc, hệ thống tư pháp… Theo báo cáo về nhân quyền của Bộ Ngoại giao Mỹ năm 2022, Mỹ vẫn đánh giá Việt Nam “có nhiều vấn đề nhân quyền nghiêm trọng”, và chính quyền Việt Nam thiếu tự do về internet, cấm đoán, can thiệp phi pháp vào tự do thông tin, biểu đạt và tự do cá nhân. Một trong những chỉ trích nặng nề nhất mà Mỹ nhắm vào hệ thống luật pháp của Việt Nam là Mỹ cho rằng vẫn còn nhiều vụ việc xét xử oan sai, các án tù, án tử được đưa ra không hợp lý, và tù phạm bị đối xử vô nhân đạo. Các khác biệt này tạo ra nhiều rào cản khiến hai nước khó xây dựng được một lòng tin sâu sắc và gắn kết lâu dài, nếu như không có những chuyển biến thật sự mạnh mẽ và tích cực trong thời gian tới.
Cân bằng giữa lý tưởng và hiện thực?
Việt Nam và Mỹ vẫn cần vượt qua nhiều thách thức (như đã bàn ở trên) dù hai nước đã đạt được thứ bậc cao nhất trong nấc thang quan hệ ngoại giao. Các thách thức ấy, nếu không được giải quyết, sẽ ảnh hưởng đến vị thế của Hà Nội trong các chính sách của Washington. Như vậy, Việt Nam có thể trở nên quan trọng hơn với Mỹ trong những trường hợp nào?
Trường hợp thứ nhất là Quốc dân Đảng giành chiến thắng trong cuộc bầu cử ở Đài Loan vào năm 2024, từ đó dần khiến Đài Loan ngả về phía Trung Quốc Đại lục, qua đó làm suy giảm tầm quan trọng của Đài Loan trong chiến lược an ninh của Mỹ. Khả năng thứ hai là Philippines có một lãnh đạo mới thân Trung Quốc hơn, từ đó hạn chế những hợp tác về quốc phòng mà Manila đã và đang có với Washington, ví dụ như nhóm 4 căn cứ quân sự của Mỹ đặt tại phía Bắc Philippines. Trường hợp cuối cùng là khi các quốc gia trong khu vực có những biến động chính trị to lớn, qua đó làm thay đổi cục diện và phân bổ ảnh hưởng của các cường quốc. Chỉ khi những điều trên xảy ra thì Việt Nam mới có thể gia tăng tầm quan trọng thực chất trong chính sách đối ngoại của Mỹ.
Không thể kỳ vọng quá nhiều hay lệ thuộc vào Mỹ, vì bản chất của chính trị vẫn là hiện thực hơn là sự trông đợi. Và việc hoạch định tương lai của một quốc gia, nếu chỉ căn cứ vào những giả định, là rất bấp bênh và không đủ cơ sở. Việt Nam vẫn quan trọng với Mỹ nhưng không đem lại lợi ích mang ý nghĩa “then chốt” khả dĩ thay thế các đồng minh thân cận của Mỹ tại khu vực. Do đó, Việt Nam khó có thể là lựa chọn hàng đầu trong nhận thức của các nhà hoạch định chính sách ở Mỹ. Bên cạnh đó, là một siêu cường với tầm ảnh hưởng toàn cầu và là mối quan tâm chủ yếu trong chính sách đối ngoại của nhiều quốc gia, Mỹ có nhiều mối bận tâm khác hơn là những cam kết quá sâu sắc với Việt Nam - một quốc gia tầm trung ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Chưa kể, ưu tiên chính sách của các nhà lãnh đạo Mỹ thường là thỏa mãn sự trông đợi của công chúng với các thiết chế xã hội và chính sách đối nội của mình.
Giới lãnh đạo Việt Nam từ lâu đã nhận thức rằng không thể quá lệ thuộc vào sự hỗ trợ bên ngoài, và nội lực của quốc gia vẫn là nhân tố quan trọng nhất, như lời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc vào tháng 12/2021: “Ý chí tự lực, tự cường và nội lực là quyết định, cơ bản, lâu dài; sự ủng hộ, giúp đỡ và nguồn lực từ bên ngoài là vô cùng quan trọng”.
Kể từ công cuộc “Đổi mới” (1986) đến nay, Việt Nam vẫn chú ý “đa dạng hoá, đa phương hoá” quan hệ quốc tế và đóng vai trò tích cực trong các vấn đề chung của thế giới. Việt Nam đang nỗ lực gia tăng vị thế quốc gia thông qua đẩy mạnh hợp tác khu vực và quốc tế, tăng cường ngoại giao đa phương, tích cực thể hiện tinh thần trách nhiệm trong các hoạt động đối ngoại (khẳng định vai trò tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 43, góp mặt tại Hội nghị G7 mở rộng, giữ vững quan hệ Việt - Trung, củng cố quan hệ Việt - Nhật, Việt - Pháp, thúc đẩy quan hệ song phương giữa Việt Nam với Australia, Philippines, Indonesia...). Đáng chú ý, Việt Nam đang nỗ lực đa dạng hóa các nguồn cung quốc phòng tiềm năng nhưng vẫn giữ kế hoạch mua vũ khí từ Nga mặc cho các trừng phạt của Mỹ lên quốc gia này. Cho đến nay, Việt Nam vẫn theo đuổi chính sách đối ngoại độc lập và cân bằng với các cường quốc.
Vậy nên, sự kiện nâng cấp quan hệ với Mỹ không đại diện cho sự thay đổi mang tính bước ngoặt trong quỹ đạo quan hệ đối ngoại của Việt Nam.
Nhìn chung, trong quan hệ với Mỹ, Việt Nam nhận thức rõ tầm quan trọng của mình. Việc nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ là tín hiệu tốt và hứa hẹn cho nền ngoại giao Việt Nam, nhưng mối quan hệ được nâng cấp chỉ đơn giản là sự tái ghi nhận các liên kết chặt chẽ, đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế, giữa hai nước. Cũng cần chú ý, quan hệ đối tác chiến lược toàn diện là một tuyên bố chính trị, và các cam kết không mang tính ràng buộc về pháp lý. Các thỏa thuận chỉ có hiệu quả khi chúng ràng buộc các bên liên quan với những mục tiêu chung cùng sự tôn trọng lẫn nhau. Muốn quan hệ hai nước đi vào thực chất đúng với tinh thần “đối tác chiến lược toàn diện” thì Việt Nam và Mỹ cần xây dựng niềm tin, thúc đẩy hợp tác và tìm được lợi ích và tiếng nói chung lớn hơn.
* Bài viết thể hiện quan điểm của riêng tác giả và không đại diện cho quan điểm của “Vietnam Strategic Forum” hay bất kỳ đơn vị nào mà tác giả cộng tác hay làm việc.
Từ khoá: quan hệ Việt - Mỹ đối tác chiến lược toàn diện quan hệ bất cân xứng cạnh tranh Mỹ - Trung