Chính trị - Ngoại giao   03/10/2023

Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt - Mỹ: Ý nghĩa và triển vọng

Việc nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ từ đối tác toàn diện lên đối tác chiến lược toàn diện cho thấy lợi ích của hai bên ngày càng song trùng, góp phần củng cố triển vọng thúc đẩy hợp tác giữa hai nước.

Nam Khang

03/10/2023
Image
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng thống Mỹ Joe Biden trong Lễ đón tiếp theo nghi thức cao nhất dành cho nguyên thủ quốc gia tại Phủ Chủ tịch (Hà Nội), ngày 10/9/2023 - (C): AFP

Trong chuyến thăm Việt Nam từ ngày 10-11/9/2023, Tổng thống Mỹ Joe Biden và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) Nguyễn Phú Trọng thông qua Tuyên bố chung về nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ lên “Đối tác Chiến lược Toàn diện vì Hòa bình, Hợp tác và Phát triển Bền vững”. Chuyến thăm Việt Nam được ông Biden ca ngợi là “thời khắc lịch sử” trong quan hệ Việt - Mỹ.

Việc nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ nhanh chóng thu hút sự chú ý của truyền thông quốc tế và giới quan sát, đặc biệt là những nhà nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Việt Nam, bởi hai lý do: 

Thứ nhất, việc nâng cấp này là chưa có tiền lệ trong lịch sử ngoại giao của Việt Nam. Khuôn khổ đối tác của Việt Nam được chia thành ba cấp độ (từ thấp đến cao) là: (1) đối tác toàn diện; (2) đối tác chiến lược; và (3) đối tác chiến lược toàn diện. Tuy nhiên, Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ từ đối tác toàn diện lên cấp độ cao nhất trong quan hệ đối tác mà bỏ qua cấp độ trung gian là đối tác chiến lược, khiến Mỹ trở thành đối tác chiến lược toàn diện “đặc biệt” hơn so với các quốc gia có cùng thang bậc trong quan hệ với Việt Nam (gồm Trung Quốc, Nga, Ấn Độ và Hàn Quốc). Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Marc Knapper nhận định, việc quan hệ Việt - Mỹ được nâng lên hai bậc là “phi thường và chưa từng có”.

Thứ hai, việc Việt Nam—quốc gia có vị trí địa chiến lược quan trọng—nâng cấp quan hệ với Mỹ lên đối tác chiến lược toàn diện diễn ra trong bối cảnh cạnh tranh Mỹ - Trung ngày càng gay gắt. Sự “trỗi dậy” của Trung Quốc cùng mưu đồ độc chiếm Biển Đông đã thúc đẩy các quốc gia có tranh chấp tại vùng biển này, bao gồm Việt Nam, tìm kiếm và phát triển quan hệ với các cường quốc bên ngoài, điển hình là Mỹ, nhằm cân bằng với Bắc Kinh. Do đó, những chuyển động chiến lược trong tam giác Mỹ-Trung-Việt luôn được giới quan sát quan tâm đặc biệt.

Hàm ý từ việc nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ

Nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ lên đối tác chiến lược toàn diện được xem là một quyết định khá bất ngờ của Việt Nam. Song đây là một bước tiến tự nhiên khi quan sát quá trình phát triển của mối quan hệ này qua hơn 25 năm qua kể từ khi hai nước bình thường hoá quan hệ ngoại giao vào năm 1995. Do đó, khuôn khổ mới của quan hệ Việt - Mỹ mang một số hàm ý:

Thứ nhất, việc nâng cấp quan hệ cho thấy Mỹ tôn trọng chế độ chính trị của Việt Nam và vai trò cầm quyền của ĐCSVN, góp phần tăng cường tính chính danh cho ĐCSVN, cả trong nước lẫn trên trường quốc tế. Việc Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (người đứng đầu ĐCSVN) chủ trì tiếp đón, hội đàm và ra tuyên bố chung nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ với Tổng thống Biden (người đứng đầu nhánh hành pháp) là một trong những minh chứng cho điều trên. Trong khi đó, việc thiết lập quan hệ đối tác toàn diện Việt - Mỹ vào năm 2013 được tiến hành bởi Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang và Tổng thống Mỹ Barack Obama tại Nhà Trắng. Sự khác biệt về thành phần ra tuyên bố chung trong hai sự kiện phần nào phản ánh Mỹ hiểu rõ và công nhận sự lãnh đạo trên thực tế của ông Trọng đối với hệ thống chính trị Việt Nam. Sự chủ động của Hà Nội trong việc nâng tầm quan hệ đối tác với Washington cũng cho thấy Việt Nam đặt lợi ích quốc gia - dân tộc cao hơn ý thức hệ. Tuyên bố chung về nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ nêu rõ hai bên “tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau” và Mỹ “ủng hộ một nước Việt Nam hùng mạnh, độc lập, thịnh vượng và tự cường”.

Thứ hai, việc nâng cấp quan hệ lên mức cao nhất là biểu hiện rõ nét cho mức độ tin cậy ngày càng gia tăng giữa Việt Nam và Mỹ. Niềm tin chính trị luôn được xem là nền tảng để các quốc gia tính toán các bước đi tiếp theo trong việc phát triển mối quan hệ song phương. Trong Tuyên bố chung về nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ, lãnh đạo hai bên khéo léo lựa chọn 16 chữ đại diện cho phương thức phát triển của hai quốc gia, đó là “gác lại quá khứ, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng, hướng tới tương lai”. Mặc dù Việt Nam và Mỹ đã bình thường hóa quan hệ ngoại giao vào năm 1995 nhưng những “nghi kỵ” khiến quan hệ song phương bị kìm hãm so với sự phát triển vốn có của nó. Sở dĩ có những khác biệt là vì hai nước vừa mới bước ra từ mối quan hệ thù địch và có chế độ chính trị, hệ tư tưởng hoàn toàn trái ngược nhau. Đặc biệt, nhiều thành phần bảo thủ trong ĐCSVN vẫn còn giữ sự nghi ngờ về động cơ, âm mưu của Mỹ đối với sự tồn vong của ĐCSVN mà Hà Nội gọi là “diễn biến hòa bình”. Tuy nhiên, từ năm 2015, vấn đề này đã dần lắng xuống và những diễn biến tích cực trong quan hệ Việt - Mỹ trong những năm trở lại đây đã góp phần xoa dịu những quan ngại trên từ phía Hà Nội.

Các chính quyền Mỹ gần đây cũng không đặt nặng các giá trị dân chủ, nhân quyền khi tiếp cận Việt Nam. Khác biệt về vấn đề nhân quyền từng được cho là nhân tố khiến Việt Nam quyết định chỉ thiết lập quan hệ “đối tác toàn diện” vào năm 2013 với Mỹ bất chấp những tuyên bố trước đó từ các quan chức hai nước về ý định nâng cấp quan hệ lên “đối tác chiến lược”. Thế nhưng, thời gian gần đây, hồ sơ nhân quyền của Việt Nam không còn là lực cản phủ bóng lên quan hệ song phương, mặc dù thỉnh thoảng vẫn được Mỹ sử dụng nhằm gây áp lực lên chính quyền Việt Nam. Hơn nữa, trong chuyến thăm đến Hà Nội, ông Biden đã cố gắng “tránh né” vấn đề nhân quyền mà dành sự tập trung cho việc nâng cấp quan hệ, lấy đại cục làm trọng. Một cách công tâm mà nói, phía Việt Nam cũng thể hiện thiện chí, sẵn sàng đối thoại công bằng với Mỹ về vấn đề này. Chẳng hạn, có thông tin nói rằng chính quyền Việt Nam đã cho phép hai nhà hoạt động Việt Nam tị nạn ở Mỹ cũng như thả hai nhà hoạt động theo các thỏa thuận mà Hà Nội và Washington đạt được trước thềm chuyến thăm của ông Biden. Hai nước cũng đã ký một thỏa thuận riêng nhằm thúc đẩy tự do tôn giáo, hoạt động của các tổ chức phi chính phủ (NGO), điều kiện sống của các tù nhân và luật lao động ở Việt Nam.

Thứ ba, việc nâng cấp quan hệ cho thấy Việt Nam và Mỹ tìm thấy nhiều lợi ích trong hợp tác, và hai nước đang hướng đến hợp tác cùng có lợi (win-win cooperation). Hợp tác song phương có nhiều sự phát triển đáng kể, và Việt Nam được xem là đối tác quan trọng của Mỹ ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.

Lĩnh vực kinh tế là trụ cột của quan hệ hợp tác Việt - Mỹ. Kim ngạch xuất - nhập khẩu giữa Việt Nam và Mỹ tăng khoảng 16%/năm và tăng gần 20 lần từ 6,8 tỷ USD năm 2005 lên gần 125 tỷ USD năm 2022. Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam và là thị trường xuất khẩu nước ngoài đầu tiên vượt mức 100 tỷ USD; trong khi Việt Nam là đối tác thương mại đứng thứ 8 của Mỹ. Mỹ hiện là nhà đầu tư lớn thứ 11 của Việt Nam với 1.286 dự án còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt gần 12 tỷ USD (tính đến tháng 8/2023). Ngoài ra, hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ về các vấn đề an ninh phi truyền thống như giáo dục, năng lượng, biến đổi khí hậu, y tế... cũng đạt được những thành tựu đáng kể, góp phần đưa quan hệ song phương đi vào thực chất, đa dạng hóa lĩnh vực hợp tác.

Bên cạnh đó, nhận thức chung về “mối đe dọa Trung Quốc” ở Biển Đông là yếu tố thúc đẩy quan hệ Việt - Mỹ phát triển theo hướng gắn kết hơn. Yêu sách chủ quyền phi pháp cùng các hành vi cưỡng ép của Trung Quốc ở Biển Đông từ lâu đã đe dọa an ninh và chủ quyền của Việt Nam. Trong khi đó, Mỹ coi sự “trỗi dậy” của Trung Quốc là điều làm xói mòn trật tự quốc tế dựa trên luật lệ. Chủ nghĩa phiêu lưu quân sự của Bắc Kinh ở Biển Đông cũng khiến Mỹ quan ngại về khả năng duy trì quyền tự do hàng hải (FONOP) cũng như vị thế nước này ở khu vực. 

Chính vì lẽ đó, hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam và Mỹ gần đây được tăng cường, trong đó Washington tập trung vào việc nâng cao năng lực hàng hải và thực thi pháp luật cho Hà Nội. Mỹ đã chuyển giao hai tàu tuần tra lớp Hamilton cho Việt Nam trong năm 2017 và 2021 và có kế hoạch chuyển giao tàu thứ ba. Mỹ cũng cam kết chuyển cho Việt Nam 12 máy bay huấn luyện T-6 trong giai đoạn 2024 - 2027. Khi mối quan hệ được nâng lên tầm cao mới, hợp tác chiến lược Việt - Mỹ được kỳ vọng sẽ phát triển hơn nữa, đặc biệt trong bối cảnh Trung Quốc tiếp tục các hành vi gây hấn ở Biển Đông. 

Thứ tư, đặt trong một bức tranh rộng lớn của quan hệ tam giác Mỹ-Trung-Việt, ở một mức độ nào đó, sự nâng cấp phản ánh rằng “chiến lược nêm” (wedge strategy) của Trung Quốc đối với quan hệ Việt - Mỹ đã phản tác dụng. Bắc Kinh sử dụng chiến lược nêm nhằm chia rẽ quan hệ giữa Hà Nội và Washington bằng cách nhấn mạnh mối quan hệ “đồng chí” (chia sẻ con đường xã hội chủ nghĩa do đảng cộng sản lãnh đạo), đồng thời cảnh báo Việt Nam về âm mưu của Mỹ trong việc thay đổi chế độ ở Hà Nội. Trong các cuộc gặp giữa các quan chức ĐCSVN và Đảng Cộng sản Trung Quốc, phía Bắc Kinh luôn nhấn mạnh vấn đề này. Bình luận về việc Việt - Mỹ nâng cấp quan hệ, tờ Hoàn cầu Thời báo (Global Times) của Trung Quốc đã nhấn mạnh: “Bản chất quan hệ Trung - Việt được thúc đẩy bởi mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Trung Quốc và ĐCSVN, và Mỹ, vốn có thái độ thù địch với chủ nghĩa xã hội, sẽ không bao giờ đưa quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam đạt mức độ của quan hệ Trung - Việt”.

Việt Nam, một mặt tiếp tục trấn an Trung Quốc về việc nâng cấp quan hệ khi cử phái đoàn sang thông tin với Bắc Kinh về ý định của Hà Nội, nhấn mạnh Trung Quốc vẫn là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, khẳng định việc xích lại gần Mỹ không nhằm chống lại Bắc Kinh. Mặt khác, lãnh đạo Việt Nam chủ động và linh hoạt thúc đẩy quan hệ với Mỹ, vượt lên sự khác biệt về ý thức hệ khi nhận thấy một mối quan hệ gần gũi với Washington mang lại lợi ích to lớn cho Hà Nội, cả về địa kinh tế lẫn địa chiến lược. Tương tác giữa Việt Nam với Mỹ và Trung Quốc đã phản ánh rõ nét chiến lược cân bằng thận trọng của Hà Nội trong quản lý quan hệ với các cường quốc.

Thứ năm, việc nâng cấp quan hệ với Mỹ là chỉ dấu mới về cách tiếp cận trong quan hệ đối tác của Việt Nam. Trong bối cảnh cạnh tranh nước lớn diễn biến phức tạp và các bên đều đang cố gắng tập hợp lực lượng, Hà Nội đã tận dụng thời điểm này để mở rộng, làm sâu sắc quan hệ với các cường quốc nhưng tránh làm phật lòng bất kỳ quốc gia nào. Việt Nam vẫn nhất quán với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá và đa phương hóa, song có những điều chỉnh nhất định trong “quan hệ đối tác”. Sở dĩ có sự điều chỉnh này vì Việt Nam muốn gửi đi thông điệp rằng nước này không chọn phe và “mong muốn làm bạn với tất cả các nước”. Trước Mỹ, Việt Nam đã nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Hàn Quốc và hiện đang chủ động thảo luận nâng cấp quan hệ lên mức cao nhất với Australia, Singapore, Nhật Bản, Indonesia

Một điểm đáng chú ý là Việt Nam hiện đã hoàn tất thiết lập quan hệ chiến lược với tất cả 5 quốc gia thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (đối tác chiến lược toàn diện với Mỹ, Trung Quốc, Nga; và đối tác chiến lược với Anh, Pháp). Điều này khẳng định vị thế ngày càng gia tăng của Việt Nam trên trường quốc tế cũng như phản ánh sự cân bằng khéo léo của Việt Nam trong việc quản lý quan hệ với các cường quốc, thậm chí là khéo léo duy trì hợp tác với hai bên đối đầu nhau (Mỹ với Trung Quốc và Nga).

Triển vọng thúc đẩy quan hệ Việt - Mỹ

Tuyên bố nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ nêu ra 10 trụ cột hợp tác chung, trong đó bao gồm những lĩnh vực mà hai nước đã từng phối hợp với nhau nhưng với nội hàm rộng và mới hơn, mở ra triển vọng phát triển hợp tác sâu rộng hơn. Chuyến thăm của Thủ tướng Phạm Minh Chính đến Mỹ từ ngày 17-23/9/2023 là một trong những bước đi đầu tiên nhằm triển khai những nội dung hợp tác mà hai nước đã cam kết. 

Trong chuyến công du Mỹ ngay sau tuyên bố nâng cấp quan hệ, ông Chính có nhiều cuộc gặp gỡ và hoạt động đối ngoại nhằm thúc đẩy quan hệ Việt - Mỹ. Trong bài phát biểu tại Đại học Georgetown, ông Chính trình bày các mục tiêu chính sách quan trọng của Việt Nam cũng như những hướng đi cụ thể tiếp theo cho quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt - Mỹ. Bên cạnh đó, ông Chính cũng gặp các quan chức cấp cao của Mỹ, gồm Bộ trưởng Bộ Thương mại Mỹ, Đại diện Thương mại Mỹ, Chủ tịch Hạ viện Mỹ và lãnh đạo các Ủy ban đối ngoại Hạ viện, Thượng viện Mỹ. Thủ tướng Việt Nam đã thảo luận với các giáo sư, chuyên gia Mỹ và người Mỹ gốc Việt về định hướng phát triển quan hệ Việt - Mỹ sau khi nâng cấp. 

Việc nâng cấp quan hệ sẽ giúp thúc đẩy hợp tác giữa hai nước trong các lĩnh vực tiềm năng, nhất là kinh tế - đầu tư và an ninh - quốc phòng. 

Về kinh tế, lĩnh vực này sẽ tiếp tục là động lực cho hợp tác Việt - Mỹ. Đây cũng là nội dung được nhấn mạnh trong suốt chuyến thăm của Thủ tướng Phạm Minh Chính đến Mỹ. Mục đích của ông Chính là kêu gọi các doanh nghiệp Mỹ, đặc biệt là các tập đoàn công nghệ cao, đầu tư nhiều hơn vào Việt Nam trong các lĩnh vực mới, như đổi mới sáng tạo, kinh tế xanh, kinh tế số, sản xuất chất bán dẫn... nhằm đưa Hà Nội trở thành một mắt xích quan trọng của chuỗi cung ứng toàn cầu trong bối cảnh nhiều doanh nghiệp nước ngoài chuyển hướng ra khỏi Trung Quốc. Trong thời gian tới, hợp tác chất bán dẫn được kỳ vọng sẽ là ưu tiên hàng đầu của quan hệ kinh tế Việt - Mỹ. Trong tuyên bố chung, phía Mỹ cũng đã công nhận Việt Nam có tiềm năng “trở thành quốc gia chủ chốt trong ngành công nghiệp bán dẫn”. 

Hợp tác trong lĩnh vực an ninh - quốc phòng được kỳ vọng sẽ phát triển lên một tầm cao mới. Cụ thể, việc nâng cấp sẽ mở ra cơ hội cho Việt Nam mua sắm nhiều vũ khí từ Mỹ, qua đó giúp Hà Nội đa dạng hóa nguồn cung vũ khí, giảm phụ thuộc vào các vũ khí và trang thiết bị từ Nga. Ngay sau tuyên bố nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ, có thông tin cho biết Việt Nam đang thảo luận mua tiêm kích F-16 của Mỹ. Dù vậy, trong tương lai khó mà có thể tưởng tượng Việt Nam trở thành đồng minh của Mỹ, phần lớn là do chính sách quốc phòng “bốn không” của Hà Nội, đó là (1) không tham gia liên minh quân sự; (2) không liên kết với nước này để chống nước kia; (3) không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; (4) không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Bên cạnh đó, lãnh đạo Việt Nam cũng sẽ thận trọng trong hợp tác quân sự với Mỹ vì lo sợ Trung Quốc “trả đũa”.

Ngoài ra, Việt Nam và Mỹ có thể sẽ tăng cường phối hợp tại các cơ chế đa phương thuộc phạm vi khu vực và quốc tế, góp phần vào giải quyết các vấn đề toàn cầu. Việt Nam và Mỹ hiện là thành viên của nhiều thể chế đa phương (như Liên Hợp Quốc, Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương (IPEF)...). Việc hợp tác với Mỹ trên các diễn đàn đa phương không chỉ góp phần kiến tạo, thúc đẩy ổn định khu vực mà còn giúp tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai nước.

Trong chuyến thăm Việt Nam từ ngày 10-11/9/2023, Tổng thống Mỹ Joe Biden và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) Nguyễn Phú Trọng thông qua Tuyên bố chung về nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ lên “Đối tác Chiến lược Toàn diện vì Hòa bình, Hợp tác và Phát triển Bền vững”. Chuyến thăm Việt Nam được ông Biden ca ngợi là “thời khắc lịch sử” trong quan hệ Việt - Mỹ.

Việc nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ nhanh chóng thu hút sự chú ý của truyền thông quốc tế và giới quan sát, đặc biệt là những nhà nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Việt Nam, bởi hai lý do: 

Thứ nhất, việc nâng cấp này là chưa có tiền lệ trong lịch sử ngoại giao của Việt Nam. Khuôn khổ đối tác của Việt Nam được chia thành ba cấp độ (từ thấp đến cao) là: (1) đối tác toàn diện; (2) đối tác chiến lược; và (3) đối tác chiến lược toàn diện. Tuy nhiên, Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ từ đối tác toàn diện lên cấp độ cao nhất trong quan hệ đối tác mà bỏ qua cấp độ trung gian là đối tác chiến lược, khiến Mỹ trở thành đối tác chiến lược toàn diện “đặc biệt” hơn so với các quốc gia có cùng thang bậc trong quan hệ với Việt Nam (gồm Trung Quốc, Nga, Ấn Độ và Hàn Quốc). Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Marc Knapper nhận định, việc quan hệ Việt - Mỹ được nâng lên hai bậc là “phi thường và chưa từng có”.

Thứ hai, việc Việt Nam—quốc gia có vị trí địa chiến lược quan trọng—nâng cấp quan hệ với Mỹ lên đối tác chiến lược toàn diện diễn ra trong bối cảnh cạnh tranh Mỹ - Trung ngày càng gay gắt. Sự “trỗi dậy” của Trung Quốc cùng mưu đồ độc chiếm Biển Đông đã thúc đẩy các quốc gia có tranh chấp tại vùng biển này, bao gồm Việt Nam, tìm kiếm và phát triển quan hệ với các cường quốc bên ngoài, điển hình là Mỹ, nhằm cân bằng với Bắc Kinh. Do đó, những chuyển động chiến lược trong tam giác Mỹ-Trung-Việt luôn được giới quan sát quan tâm đặc biệt.

Hàm ý từ việc nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ

Nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ lên đối tác chiến lược toàn diện được xem là một quyết định khá bất ngờ của Việt Nam. Song đây là một bước tiến tự nhiên khi quan sát quá trình phát triển của mối quan hệ này qua hơn 25 năm qua kể từ khi hai nước bình thường hoá quan hệ ngoại giao vào năm 1995. Do đó, khuôn khổ mới của quan hệ Việt - Mỹ mang một số hàm ý:

Thứ nhất, việc nâng cấp quan hệ cho thấy Mỹ tôn trọng chế độ chính trị của Việt Nam và vai trò cầm quyền của ĐCSVN, góp phần tăng cường tính chính danh cho ĐCSVN, cả trong nước lẫn trên trường quốc tế. Việc Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (người đứng đầu ĐCSVN) chủ trì tiếp đón, hội đàm và ra tuyên bố chung nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ với Tổng thống Biden (người đứng đầu nhánh hành pháp) là một trong những minh chứng cho điều trên. Trong khi đó, việc thiết lập quan hệ đối tác toàn diện Việt - Mỹ vào năm 2013 được tiến hành bởi Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang và Tổng thống Mỹ Barack Obama tại Nhà Trắng. Sự khác biệt về thành phần ra tuyên bố chung trong hai sự kiện phần nào phản ánh Mỹ hiểu rõ và công nhận sự lãnh đạo trên thực tế của ông Trọng đối với hệ thống chính trị Việt Nam. Sự chủ động của Hà Nội trong việc nâng tầm quan hệ đối tác với Washington cũng cho thấy Việt Nam đặt lợi ích quốc gia - dân tộc cao hơn ý thức hệ. Tuyên bố chung về nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ nêu rõ hai bên “tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau” và Mỹ “ủng hộ một nước Việt Nam hùng mạnh, độc lập, thịnh vượng và tự cường”.

Thứ hai, việc nâng cấp quan hệ lên mức cao nhất là biểu hiện rõ nét cho mức độ tin cậy ngày càng gia tăng giữa Việt Nam và Mỹ. Niềm tin chính trị luôn được xem là nền tảng để các quốc gia tính toán các bước đi tiếp theo trong việc phát triển mối quan hệ song phương. Trong Tuyên bố chung về nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ, lãnh đạo hai bên khéo léo lựa chọn 16 chữ đại diện cho phương thức phát triển của hai quốc gia, đó là “gác lại quá khứ, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng, hướng tới tương lai”. Mặc dù Việt Nam và Mỹ đã bình thường hóa quan hệ ngoại giao vào năm 1995 nhưng những “nghi kỵ” khiến quan hệ song phương bị kìm hãm so với sự phát triển vốn có của nó. Sở dĩ có những khác biệt là vì hai nước vừa mới bước ra từ mối quan hệ thù địch và có chế độ chính trị, hệ tư tưởng hoàn toàn trái ngược nhau. Đặc biệt, nhiều thành phần bảo thủ trong ĐCSVN vẫn còn giữ sự nghi ngờ về động cơ, âm mưu của Mỹ đối với sự tồn vong của ĐCSVN mà Hà Nội gọi là “diễn biến hòa bình”. Tuy nhiên, từ năm 2015, vấn đề này đã dần lắng xuống và những diễn biến tích cực trong quan hệ Việt - Mỹ trong những năm trở lại đây đã góp phần xoa dịu những quan ngại trên từ phía Hà Nội.

Các chính quyền Mỹ gần đây cũng không đặt nặng các giá trị dân chủ, nhân quyền khi tiếp cận Việt Nam. Khác biệt về vấn đề nhân quyền từng được cho là nhân tố khiến Việt Nam quyết định chỉ thiết lập quan hệ “đối tác toàn diện” vào năm 2013 với Mỹ bất chấp những tuyên bố trước đó từ các quan chức hai nước về ý định nâng cấp quan hệ lên “đối tác chiến lược”. Thế nhưng, thời gian gần đây, hồ sơ nhân quyền của Việt Nam không còn là lực cản phủ bóng lên quan hệ song phương, mặc dù thỉnh thoảng vẫn được Mỹ sử dụng nhằm gây áp lực lên chính quyền Việt Nam. Hơn nữa, trong chuyến thăm đến Hà Nội, ông Biden đã cố gắng “tránh né” vấn đề nhân quyền mà dành sự tập trung cho việc nâng cấp quan hệ, lấy đại cục làm trọng. Một cách công tâm mà nói, phía Việt Nam cũng thể hiện thiện chí, sẵn sàng đối thoại công bằng với Mỹ về vấn đề này. Chẳng hạn, có thông tin nói rằng chính quyền Việt Nam đã cho phép hai nhà hoạt động Việt Nam tị nạn ở Mỹ cũng như thả hai nhà hoạt động theo các thỏa thuận mà Hà Nội và Washington đạt được trước thềm chuyến thăm của ông Biden. Hai nước cũng đã ký một thỏa thuận riêng nhằm thúc đẩy tự do tôn giáo, hoạt động của các tổ chức phi chính phủ (NGO), điều kiện sống của các tù nhân và luật lao động ở Việt Nam.

Thứ ba, việc nâng cấp quan hệ cho thấy Việt Nam và Mỹ tìm thấy nhiều lợi ích trong hợp tác, và hai nước đang hướng đến hợp tác cùng có lợi (win-win cooperation). Hợp tác song phương có nhiều sự phát triển đáng kể, và Việt Nam được xem là đối tác quan trọng của Mỹ ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.

Lĩnh vực kinh tế là trụ cột của quan hệ hợp tác Việt - Mỹ. Kim ngạch xuất - nhập khẩu giữa Việt Nam và Mỹ tăng khoảng 16%/năm và tăng gần 20 lần từ 6,8 tỷ USD năm 2005 lên gần 125 tỷ USD năm 2022. Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam và là thị trường xuất khẩu nước ngoài đầu tiên vượt mức 100 tỷ USD; trong khi Việt Nam là đối tác thương mại đứng thứ 8 của Mỹ. Mỹ hiện là nhà đầu tư lớn thứ 11 của Việt Nam với 1.286 dự án còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt gần 12 tỷ USD (tính đến tháng 8/2023). Ngoài ra, hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ về các vấn đề an ninh phi truyền thống như giáo dục, năng lượng, biến đổi khí hậu, y tế... cũng đạt được những thành tựu đáng kể, góp phần đưa quan hệ song phương đi vào thực chất, đa dạng hóa lĩnh vực hợp tác.

Bên cạnh đó, nhận thức chung về “mối đe dọa Trung Quốc” ở Biển Đông là yếu tố thúc đẩy quan hệ Việt - Mỹ phát triển theo hướng gắn kết hơn. Yêu sách chủ quyền phi pháp cùng các hành vi cưỡng ép của Trung Quốc ở Biển Đông từ lâu đã đe dọa an ninh và chủ quyền của Việt Nam. Trong khi đó, Mỹ coi sự “trỗi dậy” của Trung Quốc là điều làm xói mòn trật tự quốc tế dựa trên luật lệ. Chủ nghĩa phiêu lưu quân sự của Bắc Kinh ở Biển Đông cũng khiến Mỹ quan ngại về khả năng duy trì quyền tự do hàng hải (FONOP) cũng như vị thế nước này ở khu vực. 

Chính vì lẽ đó, hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam và Mỹ gần đây được tăng cường, trong đó Washington tập trung vào việc nâng cao năng lực hàng hải và thực thi pháp luật cho Hà Nội. Mỹ đã chuyển giao hai tàu tuần tra lớp Hamilton cho Việt Nam trong năm 2017 và 2021 và có kế hoạch chuyển giao tàu thứ ba. Mỹ cũng cam kết chuyển cho Việt Nam 12 máy bay huấn luyện T-6 trong giai đoạn 2024 - 2027. Khi mối quan hệ được nâng lên tầm cao mới, hợp tác chiến lược Việt - Mỹ được kỳ vọng sẽ phát triển hơn nữa, đặc biệt trong bối cảnh Trung Quốc tiếp tục các hành vi gây hấn ở Biển Đông. 

Thứ tư, đặt trong một bức tranh rộng lớn của quan hệ tam giác Mỹ-Trung-Việt, ở một mức độ nào đó, sự nâng cấp phản ánh rằng “chiến lược nêm” (wedge strategy) của Trung Quốc đối với quan hệ Việt - Mỹ đã phản tác dụng. Bắc Kinh sử dụng chiến lược nêm nhằm chia rẽ quan hệ giữa Hà Nội và Washington bằng cách nhấn mạnh mối quan hệ “đồng chí” (chia sẻ con đường xã hội chủ nghĩa do đảng cộng sản lãnh đạo), đồng thời cảnh báo Việt Nam về âm mưu của Mỹ trong việc thay đổi chế độ ở Hà Nội. Trong các cuộc gặp giữa các quan chức ĐCSVN và Đảng Cộng sản Trung Quốc, phía Bắc Kinh luôn nhấn mạnh vấn đề này. Bình luận về việc Việt - Mỹ nâng cấp quan hệ, tờ Hoàn cầu Thời báo (Global Times) của Trung Quốc đã nhấn mạnh: “Bản chất quan hệ Trung - Việt được thúc đẩy bởi mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Trung Quốc và ĐCSVN, và Mỹ, vốn có thái độ thù địch với chủ nghĩa xã hội, sẽ không bao giờ đưa quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam đạt mức độ của quan hệ Trung - Việt”.

Việt Nam, một mặt tiếp tục trấn an Trung Quốc về việc nâng cấp quan hệ khi cử phái đoàn sang thông tin với Bắc Kinh về ý định của Hà Nội, nhấn mạnh Trung Quốc vẫn là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, khẳng định việc xích lại gần Mỹ không nhằm chống lại Bắc Kinh. Mặt khác, lãnh đạo Việt Nam chủ động và linh hoạt thúc đẩy quan hệ với Mỹ, vượt lên sự khác biệt về ý thức hệ khi nhận thấy một mối quan hệ gần gũi với Washington mang lại lợi ích to lớn cho Hà Nội, cả về địa kinh tế lẫn địa chiến lược. Tương tác giữa Việt Nam với Mỹ và Trung Quốc đã phản ánh rõ nét chiến lược cân bằng thận trọng của Hà Nội trong quản lý quan hệ với các cường quốc.

Thứ năm, việc nâng cấp quan hệ với Mỹ là chỉ dấu mới về cách tiếp cận trong quan hệ đối tác của Việt Nam. Trong bối cảnh cạnh tranh nước lớn diễn biến phức tạp và các bên đều đang cố gắng tập hợp lực lượng, Hà Nội đã tận dụng thời điểm này để mở rộng, làm sâu sắc quan hệ với các cường quốc nhưng tránh làm phật lòng bất kỳ quốc gia nào. Việt Nam vẫn nhất quán với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá và đa phương hóa, song có những điều chỉnh nhất định trong “quan hệ đối tác”. Sở dĩ có sự điều chỉnh này vì Việt Nam muốn gửi đi thông điệp rằng nước này không chọn phe và “mong muốn làm bạn với tất cả các nước”. Trước Mỹ, Việt Nam đã nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Hàn Quốc và hiện đang chủ động thảo luận nâng cấp quan hệ lên mức cao nhất với Australia, Singapore, Nhật Bản, Indonesia

Một điểm đáng chú ý là Việt Nam hiện đã hoàn tất thiết lập quan hệ chiến lược với tất cả 5 quốc gia thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (đối tác chiến lược toàn diện với Mỹ, Trung Quốc, Nga; và đối tác chiến lược với Anh, Pháp). Điều này khẳng định vị thế ngày càng gia tăng của Việt Nam trên trường quốc tế cũng như phản ánh sự cân bằng khéo léo của Việt Nam trong việc quản lý quan hệ với các cường quốc, thậm chí là khéo léo duy trì hợp tác với hai bên đối đầu nhau (Mỹ với Trung Quốc và Nga).

Triển vọng thúc đẩy quan hệ Việt - Mỹ

Tuyên bố nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ nêu ra 10 trụ cột hợp tác chung, trong đó bao gồm những lĩnh vực mà hai nước đã từng phối hợp với nhau nhưng với nội hàm rộng và mới hơn, mở ra triển vọng phát triển hợp tác sâu rộng hơn. Chuyến thăm của Thủ tướng Phạm Minh Chính đến Mỹ từ ngày 17-23/9/2023 là một trong những bước đi đầu tiên nhằm triển khai những nội dung hợp tác mà hai nước đã cam kết. 

Trong chuyến công du Mỹ ngay sau tuyên bố nâng cấp quan hệ, ông Chính có nhiều cuộc gặp gỡ và hoạt động đối ngoại nhằm thúc đẩy quan hệ Việt - Mỹ. Trong bài phát biểu tại Đại học Georgetown, ông Chính trình bày các mục tiêu chính sách quan trọng của Việt Nam cũng như những hướng đi cụ thể tiếp theo cho quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt - Mỹ. Bên cạnh đó, ông Chính cũng gặp các quan chức cấp cao của Mỹ, gồm Bộ trưởng Bộ Thương mại Mỹ, Đại diện Thương mại Mỹ, Chủ tịch Hạ viện Mỹ và lãnh đạo các Ủy ban đối ngoại Hạ viện, Thượng viện Mỹ. Thủ tướng Việt Nam đã thảo luận với các giáo sư, chuyên gia Mỹ và người Mỹ gốc Việt về định hướng phát triển quan hệ Việt - Mỹ sau khi nâng cấp. 

Việc nâng cấp quan hệ sẽ giúp thúc đẩy hợp tác giữa hai nước trong các lĩnh vực tiềm năng, nhất là kinh tế - đầu tư và an ninh - quốc phòng. 

Về kinh tế, lĩnh vực này sẽ tiếp tục là động lực cho hợp tác Việt - Mỹ. Đây cũng là nội dung được nhấn mạnh trong suốt chuyến thăm của Thủ tướng Phạm Minh Chính đến Mỹ. Mục đích của ông Chính là kêu gọi các doanh nghiệp Mỹ, đặc biệt là các tập đoàn công nghệ cao, đầu tư nhiều hơn vào Việt Nam trong các lĩnh vực mới, như đổi mới sáng tạo, kinh tế xanh, kinh tế số, sản xuất chất bán dẫn... nhằm đưa Hà Nội trở thành một mắt xích quan trọng của chuỗi cung ứng toàn cầu trong bối cảnh nhiều doanh nghiệp nước ngoài chuyển hướng ra khỏi Trung Quốc. Trong thời gian tới, hợp tác chất bán dẫn được kỳ vọng sẽ là ưu tiên hàng đầu của quan hệ kinh tế Việt - Mỹ. Trong tuyên bố chung, phía Mỹ cũng đã công nhận Việt Nam có tiềm năng “trở thành quốc gia chủ chốt trong ngành công nghiệp bán dẫn”. 

Hợp tác trong lĩnh vực an ninh - quốc phòng được kỳ vọng sẽ phát triển lên một tầm cao mới. Cụ thể, việc nâng cấp sẽ mở ra cơ hội cho Việt Nam mua sắm nhiều vũ khí từ Mỹ, qua đó giúp Hà Nội đa dạng hóa nguồn cung vũ khí, giảm phụ thuộc vào các vũ khí và trang thiết bị từ Nga. Ngay sau tuyên bố nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ, có thông tin cho biết Việt Nam đang thảo luận mua tiêm kích F-16 của Mỹ. Dù vậy, trong tương lai khó mà có thể tưởng tượng Việt Nam trở thành đồng minh của Mỹ, phần lớn là do chính sách quốc phòng “bốn không” của Hà Nội, đó là (1) không tham gia liên minh quân sự; (2) không liên kết với nước này để chống nước kia; (3) không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; (4) không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Bên cạnh đó, lãnh đạo Việt Nam cũng sẽ thận trọng trong hợp tác quân sự với Mỹ vì lo sợ Trung Quốc “trả đũa”.

Ngoài ra, Việt Nam và Mỹ có thể sẽ tăng cường phối hợp tại các cơ chế đa phương thuộc phạm vi khu vực và quốc tế, góp phần vào giải quyết các vấn đề toàn cầu. Việt Nam và Mỹ hiện là thành viên của nhiều thể chế đa phương (như Liên Hợp Quốc, Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương (IPEF)...). Việc hợp tác với Mỹ trên các diễn đàn đa phương không chỉ góp phần kiến tạo, thúc đẩy ổn định khu vực mà còn giúp tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai nước.

Từ khoá: quan hệ Việt - Mỹ đối tác chiến lược toàn diện niềm tin chính trị lợi ích song trùng cạnh tranh Mỹ - Trung tam giác Mỹ - Trung - Việt

BÀI LIÊN QUAN