Hy vọng nào cho Biển Đông từ tân Chủ tịch ASEAN “thân Trung Quốc”?

Lào sắp sửa đảm nhận vai trò Chủ tịch ASEAN 2024. Liệu ASEAN có thể đặt niềm tin vào Vientiane trong việc điều hướng vấn đề Biển Đông?

Ngô Hoài My 23/11/2023

Ngô Hoài My

23/11/2023
Image
Chủ tịch nước CHDCNH Lào Thongloun Sisoulith (khi ấy là Thủ tướng) bắt tay Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh năm 2020 - (C): Reuters

Ngày 7/9/2023, tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 43 ở Jakarta, Thủ tướng CHDCND Lào Sonexay Siphandone chính thức nhận bàn giao từ Tổng thống Indonesia Joko Widodo để đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN 2024. Với chủ đề “ASEAN: Tăng cường kết nối và khả năng phục hồi”, Lào hướng đến củng cố Cộng đồng ASEAN (ASEAN Community) và dẫn dắt Hiệp hội đối phó hiệu quả với những thách thức hiện tại và mới nổi như suy thoái kinh tế, biến đổi khí hậu, thiên tai và các vấn đề an ninh phi truyền thống khác.

Mặc dù đã chuẩn bị một chủ đề tích cực cho năm chủ tịch, Lào - thành viên ASEAN chịu ảnh hưởng lớn của Trung Quốc về kinh tế - đang bị giới quan sát hoài nghi về khả năng quốc gia này có thể điều phối hiệu quả những thách thức cốt lõi hiện nay của ASEAN, trong đó có tương tác giữa ASEAN với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông.

Nền kinh tế Lào ngày càng lệ thuộc vào Trung Quốc

Là quốc gia bị khoá chặt trong đất liền (landlocked country) và có GDP thấp nhất so với các thành viên ASEAN, Lào đã tích cực đón nhận sự giúp đỡ về tài chính của Trung Quốc nhằm vực dậy nền kinh tế. Trung Quốc - quốc gia khao khát tiềm năng năng lượng, nông sản, và tài nguyên của nước láng giềng nhỏ bé phía Nam - đã cho Vientiane vay hàng tỷ USD để triển khai các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông và năng lượng.

Kể từ năm 2013, Trung Quốc đã trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất của Lào, và đến nay, Trung Quốc vẫn đang sử dụng các khoản đầu tư trong khuôn khổ sáng kiến Vành đai - Con đường (BRI) để khuếch trương ảnh hưởng của mình tại Lào. Trong khuôn khổ BRI, Trung Quốc hiện có đến 815 dự án đầu tư ở Lào, với tổng giá trị hơn 16 tỷ USD. Trong đó, dự án lớn nhất là tuyến đường sắt cao tốc Vientiane – Kunming trị giá 6 tỷ USD. Bên cạnh đầu tư vào cơ sở hạ tầng giao thông, Trung Quốc cũng đầu tư hàng loạt dự án cơ sở hạ tầng năng lượng tại Lào, với 70% trong số đó là để xây dựng các đập thủy điện.

Từ năm 2020, Lào đã nhiều lần tìm cách hoãn nợ từ Trung Quốc. Khi đại dịch Covid-19 ập đến, nền kinh tế Lào càng khó trụ vững, và chính phủ Lào dần đánh mất khả năng kiểm soát các khoản nợ công. Kết quả là, sang năm 2021, khi tuyến đường sắt cao tốc Vientiane – Kunming hoàn thành cũng là lúc Ngân hàng Thế giới (WB) tuyên bố Lào đã rơi vào cuộc khủng hoảng thanh khoản. Theo ước tính của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), nợ công và nợ công được bảo lãnh của Lào hiện đã lên đến 123% tổng GDP, và các khoản vay từ Bắc Kinh chiếm hơn một nửa trong số đó.

Tuy nhiên, “quan hệ nợ nần” giữa Lào với Trung Quốc vẫn chưa dừng lại ở thời điểm khủng hoảng năm 2021. Trong giai đoạn 2020-2022, Trung Quốc đã giảm nợ đáng kể nhằm “cứu trợ tạm thời” cho Lào - một bước đi được cho là nhằm xây dựng danh tiếng ngoại giao cho Bắc Kinh. Song, trên thực tế, “ân huệ” này chỉ là một đòn bẩy để Bắc Kinh tiến đến ký kết một loạt thoả thuận nhằm khai thác nguồn lợi kinh tế và tài nguyên lớn hơn ở Lào.

Năm 2020, Công ty TNHH Truyền tải Điện Lào (EDLT), thuộc sở hữu nhà nước, đã ký thoả thuận nhằm trao lại phần lớn quyền kiểm soát doanh nghiệp cho Công ty Lưới điện Miền Nam Trung Quốc (CSG) trong vòng 25 năm (tính từ năm 2021). Thoả thuận trên đồng nghĩa với việc Vientiane đã để vận mệnh lưới điện quốc gia của mình rơi vào bàn tay của Bắc Kinh trong suốt một phần tư thế kỷ. Tiếp theo đó, tháng 9 năm ngoái, Trung Quốc lại có thêm một thoả thuận chiến lược với Lào, nhắm vào mục tiêu mới là tài nguyên đất hiếm của Vientiane, qua việc thành lập liên doanh thăm dò đất hiếm ở Lào giữa hai tập đoàn Xiamen Tungsten Corporation (XTC) và Chifeng Jilong Gold Mining Co (Chifeng Gold) của Trung Quốc.

Khi an ninh quốc gia của Lào có nguy cơ bị xói mòn bởi tác động từ những khoản nợ không thể trả với Trung Quốc, thì nhiệm vụ quản lý các vấn đề chung của ASEAN trong nhiệm kỳ chủ tịch sắp tới, có vẻ như đang vượt quá khả năng của “quốc gia yếu ớt” này.

Tận dụng các mắt xích yếu của ASEAN, Trung Quốc tác động vào vấn đề Biển Đông

Nắm được điểm yếu trong việc ra quyết định của ASEAN thông qua nguyên tắc đồng thuận (consensus decision-making), Trung Quốc thường xuyên tìm cách lợi dụng ưu thế kinh tế để chia rẽ quan điểm của các thành viên trong khối này về vấn đề Biển Đông. Campuchia, Thái Lan, Myanmar và Lào được cho là bốn quốc gia có xu hướng né tránh bất kỳ quyết định tập thể nào của ASEAN có khả năng gây bất lợi cho Trung Quốc.

Năm 2016, trước thời điểm Toà trọng tài Biển Đông đưa ra phán quyết về vụ kiện đơn phương của Philippines với Trung Quốc, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã có chuỗi công du liên tiếp tới Brunei, Campuchia và Lào (từ ngày 22-24/4), nhằm kêu gọi sự ủng hộ của ba nước thành viên ASEAN đối với các yêu sách lãnh thổ của Bắc Kinh ở Biển Đông. Kết quả là, một đồng thuận bốn điểm giữa Trung Quốc, Brunei, Campuchia và Lào đã được công bố vào ngày 23/4 với nội dung:

1. “Trung Quốc và ba nước đồng ý rằng tranh chấp đối với một số đảo và rạn san hô ở Nam Sa [tên Trung Quốc đơn phương đặt cho quần đảo Trường Sa] không phải là vấn đề giữa Trung Quốc và ASEAN”;

2. “...quyền lựa chọn cách giải quyết tranh chấp phù hợp với luật pháp quốc tế của các quốc gia có chủ quyền cần phải được tôn trọng, và [bốn nước] phản đối việc áp đặt ý chí đơn phương lên quốc gia khác”;

3. “...các tranh chấp về quyền và lợi ích lãnh thổ, biển cần được giải quyết thông qua đối thoại và tham vấn giữa các bên liên quan trực tiếp theo Điều 4 của Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC)”; và

4. “...các nước ASEAN có thể cùng nhau duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông thông qua hợp tác. Các nước ngoài khu vực nên đóng vai trò mang tính xây dựng thay vì làm điều ngược lại”.

Đồng thuận bốn điểm năm 2016 có thể được coi là một phần trong nỗ lực của Trung Quốc nhằm tìm kiếm sự ủng hộ ngoại giao trước sự lan rộng của làn sóng phản đối quốc gia này sau vụ kiện của Philippines. Động thái trên cho thấy Bắc Kinh sẵn sàng lợi dụng các quốc gia thân thiện với mình trong ASEAN để khoét sâu sự chia rẽ của khối này về vấn đề Biển Đông.

Trong số bốn nước đã tham gia vào đồng thuận bốn điểm với Trung Quốc năm 2016, Campuchia là quốc gia ủng hộ Trung Quốc rõ rệt nhất. Tương tự Lào, quốc gia này phụ thuộc gần 90% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc. Campuchia cũng được cho là đã ký một thỏa thuận cho phép các lực lượng Trung Quốc tiếp cận Căn cứ Hải quân Ream của nước này trên Vịnh Thái Lan. Ảnh hưởng kinh tế và quân sự mạnh mẽ của Trung Quốc đối với Campuchia biến Phnom Penh thành “cánh tay đắc lực” của Bắc Kinh trong âm mưu cản trở sự đồng thuận của ASEAN trong các chương trình nghị sự chung về Biển Đông.

Năm 2012, trong nhiệm kỳ Chủ tịch của Campuchia, lần đầu tiên trong lịch sử 45 năm thành lập ASEAN, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN đã kết thúc mà không đưa ra được một thông cáo chung. Năm 2016, trong nhiệm kỳ Chủ tịch gần nhất của Lào, trường hợp tương tự lại xảy ra. Tuyên bố chung của ASEAN về Biển Đông đã bị rút lại sau khi được ban hành, trong đó có nghi ngờ rằng Campuchia đã sử dụng quyền phủ quyết của mình để ngăn chặn tuyên bố.

Ảnh hưởng gia tăng của Bắc Kinh ở Campuchia và Lào khiến những phản ứng thiếu thiện chí của Campuchia tại các cuộc thảo luận về Biển Đông của ASEAN trong quá khứ trở thành tiền lệ xấu mà Lào có thể lặp lại trong năm chủ tịch ASEAN 2024. Vì lệ thuộc vào quan hệ kinh tế gần gũi với Trung Quốc, Vientiane có thể dễ bị tác động bởi áp lực của Bắc Kinh trong việc dàn xếp chương trình nghị sự cũng như đưa ra tuyên bố chung của khối liên quan đến vấn đề Biển Đông. Trong các chương trình nghị sự của ASEAN vào năm tới, việc ứng phó với những căng thẳng hàng hải hiện nay giữa Philippines và Trung Quốc và quá trình đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) giữa Trung Quốc và ASEAN có thể vướng nhiều trở ngại.

ASEAN có thể làm gì?

Ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Lào hay Campuchia, suy cho cùng, đều có nguồn gốc từ nhân tố kinh tế. Một khi nội bộ ASEAN ngày càng chia rẽ và thiếu sự tương trợ lẫn nhau về kinh tế giữa các nước ASEAN-6 (Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Singapore) và các nước CLVM (Campuchia, Lào, Việt Nam, Myanmar), Lào có thể trở thành một trong những mạn sườn yếu của ASEAN, nơi Trung Quốc dễ bề sử dụng công cụ kinh tế để gián tiếp tác động vào cơ chế đồng thuận của khối về vấn đề an ninh ở Biển Đông.

Vì vậy, các thành viên ASEAN có tiềm lực kinh tế vượt trội hơn cần tăng cường đầu tư và hợp tác kinh tế với Lào để cân bằng với ảnh hưởng của Trung Quốc tại quốc gia này, từ đó hạn chế rủi ro Lào “để mở” cho Trung Quốc can thiệp vào các quan điểm của khối liên quan đến Biển Đông. Trong đó, Singapore - nhà đầu tư hàng đầu ASEAN, và Việt Nam - quốc gia gần gũi về mặt địa lý, lịch sử và chính trị với Lào, có thể đóng vai trò tiên phong trong việc tăng cường đầu tư và hỗ trợ kinh tế cho Vientiane.

Có lẽ ASEAN cũng nhận thấy tính khả thi của hướng đi này khi những hoạt động hỗ trợ kinh tế cho Lào bắt đầu được tăng cường trong thời gian gần đây. Với định hướng trở thành “viên pin” của Đông Nam Á (“the battery” of Southeast Asia), Lào xem hoạt động sản xuất năng lượng để xuất khẩu sang các nước láng giềng gồm Thái Lan, Việt Nam, Campuchia, Malaysia và Myanmar là một trong những động lực thúc đẩy nền kinh tế quốc gia. Vào tháng 6 năm ngoái, đã có thêm một thành viên ASEAN nữa là Singapore chung tay thúc đẩy định hướng này của Lào, khi lần đầu tiên Singapore nhập khẩu điện từ năng lượng tái tạo của Lào trong khuôn khổ Dự án Tích hợp Điện Lào - Thái Lan - Malaysia - Singapore (LTMS-PIP).

Bên cạnh đó, Singapore cũng bày tỏ thiện chí tăng cường đầu tư vào Lào. Cuối tháng 9 năm nay, Thủ tướng Lý Hiển Long đã gặp người đồng cấp Lào Phankham Viphavanh nhân dịp hai nước sẽ kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 2024, và nhất trí tăng cường hợp tác song phương trên nhiều lĩnh vực, trong đó có hợp tác hậu cần và quy hoạch đô thị.

Trong ASEAN, Việt Nam là quốc gia có tầm ảnh hưởng chính trị và kinh tế đối với Lào. Sau khi Việt Nam giúp Lào xây dựng toà nhà Quốc hội mới (khánh thành vào năm 2021), thì đến đầu năm 2022, thủ tướng của hai nước đã gặp nhau để thảo luận các kế hoạch giúp Lào thực hiện mục tiêu trở thành trung tâm logistics khu vực có kết nối ra biển thông qua Cảng Vũng Áng, còn gọi là Cảng Quốc tế Việt - Lào tại tỉnh Hà Tĩnh của Việt Nam. Nếu Trung Quốc tận dụng đòn bẩy kinh tế, thì Việt Nam, và rộng hơn là ASEAN, có thể đồng thời kết hợp lợi ích kinh tế và niềm tin chính trị như một “mỏ neo kép” để giúp Lào giữ sự cân bằng trong tương tác với ASEAN và Trung Quốc.

Nhìn lại sự kiện năm 2016, Lào có thể đã không hề muốn để đồng thuận bốn điểm về Biển Đông với Trung Quốc làm “mếch lòng” người bạn truyền thống là Việt Nam - đất nước vốn luôn xem Biển Đông là vấn đề căng thẳng trong quan hệ với Bắc Kinh. Minh chứng là chỉ hai ngày sau tuyên bố của Trung Quốc về đồng thuận bốn điểm, Chủ tịch nước CHDCND Lào vừa được bổ nhiệm khi ấy là ông Bounnhang Vorachith đã chọn Việt Nam là điểm đến cho chuyến công du nước ngoài đầu tiên, kéo dài đến ba ngày (từ ngày 25-27/6/2016), để gặp gỡ đầy đủ “Tứ trụ” (gồm Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội) trong bộ máy chính trị Việt Nam.

Sau tất cả, khi trao lại chiếc búa Chủ tịch ASEAN cho Lào - một thành viên với tiềm lực còn nhỏ bé và dễ bị tổn thương về nhiều mặt - ASEAN cần tích cực hỗ trợ Lào thông qua triển khai ngoại giao kinh tế và tăng cường lòng tin để giữ Lào không rời xa vòng tay ASEAN và tiến gần hơn về phía Trung Quốc, nhất là trong vấn đề Biển Đông.

Ngày 7/9/2023, tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 43 ở Jakarta, Thủ tướng CHDCND Lào Sonexay Siphandone chính thức nhận bàn giao từ Tổng thống Indonesia Joko Widodo để đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN 2024. Với chủ đề “ASEAN: Tăng cường kết nối và khả năng phục hồi”, Lào hướng đến củng cố Cộng đồng ASEAN (ASEAN Community) và dẫn dắt Hiệp hội đối phó hiệu quả với những thách thức hiện tại và mới nổi như suy thoái kinh tế, biến đổi khí hậu, thiên tai và các vấn đề an ninh phi truyền thống khác.

Mặc dù đã chuẩn bị một chủ đề tích cực cho năm chủ tịch, Lào - thành viên ASEAN chịu ảnh hưởng lớn của Trung Quốc về kinh tế - đang bị giới quan sát hoài nghi về khả năng quốc gia này có thể điều phối hiệu quả những thách thức cốt lõi hiện nay của ASEAN, trong đó có tương tác giữa ASEAN với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông.

Nền kinh tế Lào ngày càng lệ thuộc vào Trung Quốc

Là quốc gia bị khoá chặt trong đất liền (landlocked country) và có GDP thấp nhất so với các thành viên ASEAN, Lào đã tích cực đón nhận sự giúp đỡ về tài chính của Trung Quốc nhằm vực dậy nền kinh tế. Trung Quốc - quốc gia khao khát tiềm năng năng lượng, nông sản, và tài nguyên của nước láng giềng nhỏ bé phía Nam - đã cho Vientiane vay hàng tỷ USD để triển khai các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông và năng lượng.

Kể từ năm 2013, Trung Quốc đã trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất của Lào, và đến nay, Trung Quốc vẫn đang sử dụng các khoản đầu tư trong khuôn khổ sáng kiến Vành đai - Con đường (BRI) để khuếch trương ảnh hưởng của mình tại Lào. Trong khuôn khổ BRI, Trung Quốc hiện có đến 815 dự án đầu tư ở Lào, với tổng giá trị hơn 16 tỷ USD. Trong đó, dự án lớn nhất là tuyến đường sắt cao tốc Vientiane – Kunming trị giá 6 tỷ USD. Bên cạnh đầu tư vào cơ sở hạ tầng giao thông, Trung Quốc cũng đầu tư hàng loạt dự án cơ sở hạ tầng năng lượng tại Lào, với 70% trong số đó là để xây dựng các đập thủy điện.

Từ năm 2020, Lào đã nhiều lần tìm cách hoãn nợ từ Trung Quốc. Khi đại dịch Covid-19 ập đến, nền kinh tế Lào càng khó trụ vững, và chính phủ Lào dần đánh mất khả năng kiểm soát các khoản nợ công. Kết quả là, sang năm 2021, khi tuyến đường sắt cao tốc Vientiane – Kunming hoàn thành cũng là lúc Ngân hàng Thế giới (WB) tuyên bố Lào đã rơi vào cuộc khủng hoảng thanh khoản. Theo ước tính của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), nợ công và nợ công được bảo lãnh của Lào hiện đã lên đến 123% tổng GDP, và các khoản vay từ Bắc Kinh chiếm hơn một nửa trong số đó.

Tuy nhiên, “quan hệ nợ nần” giữa Lào với Trung Quốc vẫn chưa dừng lại ở thời điểm khủng hoảng năm 2021. Trong giai đoạn 2020-2022, Trung Quốc đã giảm nợ đáng kể nhằm “cứu trợ tạm thời” cho Lào - một bước đi được cho là nhằm xây dựng danh tiếng ngoại giao cho Bắc Kinh. Song, trên thực tế, “ân huệ” này chỉ là một đòn bẩy để Bắc Kinh tiến đến ký kết một loạt thoả thuận nhằm khai thác nguồn lợi kinh tế và tài nguyên lớn hơn ở Lào.

Năm 2020, Công ty TNHH Truyền tải Điện Lào (EDLT), thuộc sở hữu nhà nước, đã ký thoả thuận nhằm trao lại phần lớn quyền kiểm soát doanh nghiệp cho Công ty Lưới điện Miền Nam Trung Quốc (CSG) trong vòng 25 năm (tính từ năm 2021). Thoả thuận trên đồng nghĩa với việc Vientiane đã để vận mệnh lưới điện quốc gia của mình rơi vào bàn tay của Bắc Kinh trong suốt một phần tư thế kỷ. Tiếp theo đó, tháng 9 năm ngoái, Trung Quốc lại có thêm một thoả thuận chiến lược với Lào, nhắm vào mục tiêu mới là tài nguyên đất hiếm của Vientiane, qua việc thành lập liên doanh thăm dò đất hiếm ở Lào giữa hai tập đoàn Xiamen Tungsten Corporation (XTC) và Chifeng Jilong Gold Mining Co (Chifeng Gold) của Trung Quốc.

Khi an ninh quốc gia của Lào có nguy cơ bị xói mòn bởi tác động từ những khoản nợ không thể trả với Trung Quốc, thì nhiệm vụ quản lý các vấn đề chung của ASEAN trong nhiệm kỳ chủ tịch sắp tới, có vẻ như đang vượt quá khả năng của “quốc gia yếu ớt” này.

Tận dụng các mắt xích yếu của ASEAN, Trung Quốc tác động vào vấn đề Biển Đông

Nắm được điểm yếu trong việc ra quyết định của ASEAN thông qua nguyên tắc đồng thuận (consensus decision-making), Trung Quốc thường xuyên tìm cách lợi dụng ưu thế kinh tế để chia rẽ quan điểm của các thành viên trong khối này về vấn đề Biển Đông. Campuchia, Thái Lan, Myanmar và Lào được cho là bốn quốc gia có xu hướng né tránh bất kỳ quyết định tập thể nào của ASEAN có khả năng gây bất lợi cho Trung Quốc.

Năm 2016, trước thời điểm Toà trọng tài Biển Đông đưa ra phán quyết về vụ kiện đơn phương của Philippines với Trung Quốc, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã có chuỗi công du liên tiếp tới Brunei, Campuchia và Lào (từ ngày 22-24/4), nhằm kêu gọi sự ủng hộ của ba nước thành viên ASEAN đối với các yêu sách lãnh thổ của Bắc Kinh ở Biển Đông. Kết quả là, một đồng thuận bốn điểm giữa Trung Quốc, Brunei, Campuchia và Lào đã được công bố vào ngày 23/4 với nội dung:

1. “Trung Quốc và ba nước đồng ý rằng tranh chấp đối với một số đảo và rạn san hô ở Nam Sa [tên Trung Quốc đơn phương đặt cho quần đảo Trường Sa] không phải là vấn đề giữa Trung Quốc và ASEAN”;

2. “...quyền lựa chọn cách giải quyết tranh chấp phù hợp với luật pháp quốc tế của các quốc gia có chủ quyền cần phải được tôn trọng, và [bốn nước] phản đối việc áp đặt ý chí đơn phương lên quốc gia khác”;

3. “...các tranh chấp về quyền và lợi ích lãnh thổ, biển cần được giải quyết thông qua đối thoại và tham vấn giữa các bên liên quan trực tiếp theo Điều 4 của Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC)”; và

4. “...các nước ASEAN có thể cùng nhau duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông thông qua hợp tác. Các nước ngoài khu vực nên đóng vai trò mang tính xây dựng thay vì làm điều ngược lại”.

Đồng thuận bốn điểm năm 2016 có thể được coi là một phần trong nỗ lực của Trung Quốc nhằm tìm kiếm sự ủng hộ ngoại giao trước sự lan rộng của làn sóng phản đối quốc gia này sau vụ kiện của Philippines. Động thái trên cho thấy Bắc Kinh sẵn sàng lợi dụng các quốc gia thân thiện với mình trong ASEAN để khoét sâu sự chia rẽ của khối này về vấn đề Biển Đông.

Trong số bốn nước đã tham gia vào đồng thuận bốn điểm với Trung Quốc năm 2016, Campuchia là quốc gia ủng hộ Trung Quốc rõ rệt nhất. Tương tự Lào, quốc gia này phụ thuộc gần 90% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc. Campuchia cũng được cho là đã ký một thỏa thuận cho phép các lực lượng Trung Quốc tiếp cận Căn cứ Hải quân Ream của nước này trên Vịnh Thái Lan. Ảnh hưởng kinh tế và quân sự mạnh mẽ của Trung Quốc đối với Campuchia biến Phnom Penh thành “cánh tay đắc lực” của Bắc Kinh trong âm mưu cản trở sự đồng thuận của ASEAN trong các chương trình nghị sự chung về Biển Đông.

Năm 2012, trong nhiệm kỳ Chủ tịch của Campuchia, lần đầu tiên trong lịch sử 45 năm thành lập ASEAN, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN đã kết thúc mà không đưa ra được một thông cáo chung. Năm 2016, trong nhiệm kỳ Chủ tịch gần nhất của Lào, trường hợp tương tự lại xảy ra. Tuyên bố chung của ASEAN về Biển Đông đã bị rút lại sau khi được ban hành, trong đó có nghi ngờ rằng Campuchia đã sử dụng quyền phủ quyết của mình để ngăn chặn tuyên bố.

Ảnh hưởng gia tăng của Bắc Kinh ở Campuchia và Lào khiến những phản ứng thiếu thiện chí của Campuchia tại các cuộc thảo luận về Biển Đông của ASEAN trong quá khứ trở thành tiền lệ xấu mà Lào có thể lặp lại trong năm chủ tịch ASEAN 2024. Vì lệ thuộc vào quan hệ kinh tế gần gũi với Trung Quốc, Vientiane có thể dễ bị tác động bởi áp lực của Bắc Kinh trong việc dàn xếp chương trình nghị sự cũng như đưa ra tuyên bố chung của khối liên quan đến vấn đề Biển Đông. Trong các chương trình nghị sự của ASEAN vào năm tới, việc ứng phó với những căng thẳng hàng hải hiện nay giữa Philippines và Trung Quốc và quá trình đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) giữa Trung Quốc và ASEAN có thể vướng nhiều trở ngại.

ASEAN có thể làm gì?

Ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Lào hay Campuchia, suy cho cùng, đều có nguồn gốc từ nhân tố kinh tế. Một khi nội bộ ASEAN ngày càng chia rẽ và thiếu sự tương trợ lẫn nhau về kinh tế giữa các nước ASEAN-6 (Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Singapore) và các nước CLVM (Campuchia, Lào, Việt Nam, Myanmar), Lào có thể trở thành một trong những mạn sườn yếu của ASEAN, nơi Trung Quốc dễ bề sử dụng công cụ kinh tế để gián tiếp tác động vào cơ chế đồng thuận của khối về vấn đề an ninh ở Biển Đông.

Vì vậy, các thành viên ASEAN có tiềm lực kinh tế vượt trội hơn cần tăng cường đầu tư và hợp tác kinh tế với Lào để cân bằng với ảnh hưởng của Trung Quốc tại quốc gia này, từ đó hạn chế rủi ro Lào “để mở” cho Trung Quốc can thiệp vào các quan điểm của khối liên quan đến Biển Đông. Trong đó, Singapore - nhà đầu tư hàng đầu ASEAN, và Việt Nam - quốc gia gần gũi về mặt địa lý, lịch sử và chính trị với Lào, có thể đóng vai trò tiên phong trong việc tăng cường đầu tư và hỗ trợ kinh tế cho Vientiane.

Có lẽ ASEAN cũng nhận thấy tính khả thi của hướng đi này khi những hoạt động hỗ trợ kinh tế cho Lào bắt đầu được tăng cường trong thời gian gần đây. Với định hướng trở thành “viên pin” của Đông Nam Á (“the battery” of Southeast Asia), Lào xem hoạt động sản xuất năng lượng để xuất khẩu sang các nước láng giềng gồm Thái Lan, Việt Nam, Campuchia, Malaysia và Myanmar là một trong những động lực thúc đẩy nền kinh tế quốc gia. Vào tháng 6 năm ngoái, đã có thêm một thành viên ASEAN nữa là Singapore chung tay thúc đẩy định hướng này của Lào, khi lần đầu tiên Singapore nhập khẩu điện từ năng lượng tái tạo của Lào trong khuôn khổ Dự án Tích hợp Điện Lào - Thái Lan - Malaysia - Singapore (LTMS-PIP).

Bên cạnh đó, Singapore cũng bày tỏ thiện chí tăng cường đầu tư vào Lào. Cuối tháng 9 năm nay, Thủ tướng Lý Hiển Long đã gặp người đồng cấp Lào Phankham Viphavanh nhân dịp hai nước sẽ kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 2024, và nhất trí tăng cường hợp tác song phương trên nhiều lĩnh vực, trong đó có hợp tác hậu cần và quy hoạch đô thị.

Trong ASEAN, Việt Nam là quốc gia có tầm ảnh hưởng chính trị và kinh tế đối với Lào. Sau khi Việt Nam giúp Lào xây dựng toà nhà Quốc hội mới (khánh thành vào năm 2021), thì đến đầu năm 2022, thủ tướng của hai nước đã gặp nhau để thảo luận các kế hoạch giúp Lào thực hiện mục tiêu trở thành trung tâm logistics khu vực có kết nối ra biển thông qua Cảng Vũng Áng, còn gọi là Cảng Quốc tế Việt - Lào tại tỉnh Hà Tĩnh của Việt Nam. Nếu Trung Quốc tận dụng đòn bẩy kinh tế, thì Việt Nam, và rộng hơn là ASEAN, có thể đồng thời kết hợp lợi ích kinh tế và niềm tin chính trị như một “mỏ neo kép” để giúp Lào giữ sự cân bằng trong tương tác với ASEAN và Trung Quốc.

Nhìn lại sự kiện năm 2016, Lào có thể đã không hề muốn để đồng thuận bốn điểm về Biển Đông với Trung Quốc làm “mếch lòng” người bạn truyền thống là Việt Nam - đất nước vốn luôn xem Biển Đông là vấn đề căng thẳng trong quan hệ với Bắc Kinh. Minh chứng là chỉ hai ngày sau tuyên bố của Trung Quốc về đồng thuận bốn điểm, Chủ tịch nước CHDCND Lào vừa được bổ nhiệm khi ấy là ông Bounnhang Vorachith đã chọn Việt Nam là điểm đến cho chuyến công du nước ngoài đầu tiên, kéo dài đến ba ngày (từ ngày 25-27/6/2016), để gặp gỡ đầy đủ “Tứ trụ” (gồm Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội) trong bộ máy chính trị Việt Nam.

Sau tất cả, khi trao lại chiếc búa Chủ tịch ASEAN cho Lào - một thành viên với tiềm lực còn nhỏ bé và dễ bị tổn thương về nhiều mặt - ASEAN cần tích cực hỗ trợ Lào thông qua triển khai ngoại giao kinh tế và tăng cường lòng tin để giữ Lào không rời xa vòng tay ASEAN và tiến gần hơn về phía Trung Quốc, nhất là trong vấn đề Biển Đông.

Từ khoá: Chủ tịch ASEAN Lào ASEAN Trung Quốc Việt Nam Biển Đông ngoại giao bẫy nợ

BÀI LIÊN QUAN